TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 89 CN 10.06.2007

 

Web site : www.tinvui.org

E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

 

MỤC LỤC

 

Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Năm C..

NẠN ĐÓI VÀ SỰ HIỆP THÔNG..

SỬA MÌNH TRONG LỬA THÁNH TÂM...

Đức Thánh Cha tôn phong bốn vị thánh.

Đại Hội Thánh Thể 2008 được tổ chức tại Canada.

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH G-8.

Sứ Ðiệp của ÐTC Beneđitô XVI cho ngày Thế giới Truyền Giáo lần thứ 81 (Chúa Nhật 21.10.2007)

Thánh Lễ Khánh Thành Nhà Thờ Phương Hòa, Giáo hạt Kontum, Giáo Phận Kontum.

Lời Chủ Chăn.

Lễ Khấn Dòng các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết

Lm Giuse Nguyễn Hữu An.

Giáo Hội với các phương tiện truyền thông.

THÁNH THỂ - BỮA ĂN TỐI CỦA CHÚA..

Phục vụ cho sự sống đời đời

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC..

Người tín hữu chu toàn luật buộc tham dự Thánh lễ Chúa nhật như thế nào ?.

TRUYỀN CHỨC LINH MỤC CHO PHỤ NỮ..

BẠO LỰC : VŨ KHÍ CỦA KẺ YẾU..

Giáo dục con cái   CÁI GỐC LÀ Ở GIA ĐÌNH..

TÔBIA & SARA..

BÁC SĨ ALBERTO NERI FERNANDEZ, CHẾT VÌ QUẢNG ĐẠI.

Vụn vặt suy tư :

SAI LẦM : ĐÁNG TIẾC NHƯNG KHÔNG ĐÁNG TRÁCH..

 

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Năm C

Lc 9, 11b-17

"Tất cả đều ăn no nê".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa". Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Đó là lời Chúa.

 

NẠN ĐÓI VÀ SỰ HIỆP THÔNG

 

Trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều là trình thuật nền tảng và quen thuộc của Tin mừng, vì 4 Tin mừng đều thuật lại câu chuyện này (Mt 14, 13- 21; Mc 6, 30- 34; Lc 9, 10- 17; Ga 6, 1-14)). Xét về chi tiết thì mỗi tác giả thuật mỗi khác tuỳ theo quan điểm riêng của từng tác giả, nhưng tổng quát sự kiện xảy ra thì giống nhau.

 

Thánh Luca cho chúng ta chiêm ngắm một vị Chúa đầy tình thương, tình người và kêu gọi chúng ta chia sẻ để có thể hiệp thông với Chúa và liên kết với anh chị em.

 

  1. Chúa Giêsu, Đấng thương cảm trước “ cái đói, cái khát” của con người.

 

Những ai đã trải qua cái đói, khát thì mới thấy sự đáng thương, bi đát người bị đói. Vì thế, phải đặt mình vào vị trí của những người đi theo Chúa Giêsu vào buổi chiều hôm ấy thì mới thấy được tình trạng thê thản như thế nào khi không có cái gì để bỏ vào bụng. Có lẽ những người này đang trong tình trạng đói lả. Và Chúa Giêsu không thể nào làm ngơ trước tình hình đáng thương ấy của ‘đám đông”. Họ đói khát vì đi theo Người, vì chăm chú nghe lời Người. Chúa Giêsu không chỉ giải quyết cái đói thiêng liêng : Người nói với họ về Nước Thiên Chúa (c 11b) mà Người còn giải quyết cái đói vật chất của đám đông đang theo Người : chữa lành những ai cần được chữa lành và cho mọi người được ăn no nê ( c 17a).

 

  1. Chính anh em hãy cho họ ăn.

 

Phản ứng sửng sốt của các môn đệ như bị gáo nước lạnh dội thẳng vào người là bình thường, vì làm sao họ có thể cung cấp thực phẩm cho số người như thế (riêng đàn ông đã đến gần năm ngàn). Vì thế khôn ngoan nhất là giải tán để họ có thể tìm lương thực nới các làng chung quanh - trong Gioan thì Chúa Giêsu là người đầu tiên bày tỏ sự lo lắng này ( Ga 6, 5) chứ không phải các môn đệ - và đây có lẽ cũng là cách của chúng ta hôm nay. Nhưng khi được Chúa gợi ý cho dân ăn, thì các ông đã nhiệt tình như muốn đóng góp tất cả. Năm chiếc bánh và hai con cá như thế là tất cả chất liệu mà các ông  có thể cung cấp cho Người (5+2=7); một con số diễn tả sự viên mãn, trọn vẹn ) Trong bữa ăn Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh chị em và rồi chính Người sẽ cung cấp chất liệu để ta chia sẻ ( Lc 11, 14).

 

Thực ra chính Chúa Giêsu mới là Đấng làm cho con người được no thỏa. Các môn đệ xưa kia đã cộng tác với Thầy mình và hôm nay là Giáo hội mà trong đó mỗi người chúng ta được kêu gọi như là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta chỉ có thể trở thành tấm bánh đươc bẻ ra và được trao ban cho anh chị em mình một khi dám đi ra khỏi cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, so đo tính toán, cố bám lấy chức quyền, địa vị, hay tìm kiếm một chỗ ở an toàn để yên thân, để được kính nể… Chính vì vậy, cộng đoàn mặc dù không đói cơm bánh nhưng lại là nơi đói khát tình người, tình huynh đệ, và thế giới hôm nay tưởng chừng như sung túc thì lại trở thành nơi thiếu cơm bánh và đầy bất công. Một thế giới tưởng chứng là ngôi nhà chung của mọi người thì lại là nơi chất chứa nỗi cơ đơn, tuyệt vọng.

 

Bao lâu “cái tôi” của ta còn quá lớn thì không thể ngả mình thành từng nhóm (c 14a) và lại càng không thể bảo mọi người ngả mình xuống được (c 14b), tức là vẫn còn chia rẽ, vẫn còn thiếu tình huynh đệ. Nếu sau khi hiệp thông với Chúa trong thánh lễ (rước lễ) mà vẫn không thể chia sẻ cơm bánh vật chất, cơm bánh thiêng liêng với anh chị em mình thì Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn xa lạ với chúng ta vì chúng ta chưa thực sự hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là Tấm Bánh được bẻ ra và được trao ban cho nhân loại thông qua các tín hữu.

 

Lm. Antôn Vũ Hữu Lệ, Dòng Phanxicô.

 

 

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

SỬA MÌNH TRONG LỬA THÁNH TÂM

 

Xét mình để sửa mình là một bổn phận quan trọng của người Công giáo. Bổn phận này càng trở thành đòi hỏi bức xúc nơi người tu trì.

 

Có nhiều cách xét mình. Ở đây tôi xin đề cập đến một cách, mà nhiều nhà tu đức đã dạy. Kinh nghiệm cho thấy : Ai thực hiện đúng sẽ khám phá ra nhiều sự thực cứu độ.

 

Cách xét mình này có yếu tố chung của mọi việc xét mình, đó là đi vào bầu khí thinh lặng nội tâm. Còn yếu tố riêng của nó là nhờ ngọn lửa trái tim Chúa, để soi tìm một lãnh vực, mà tôi gọi là “đàng sau “. Như :

 

Đàng sau những cái nhìn.

Đàng sau những khát vọng.

Đáng sau những phấn đấu.

 

Tôi xin vắn tắt triển khai ví dụ trên

 

  1. Đàng sau những cái nhìn

 

Nhìn là việc bình thường. Nhưng cái nhìn của ta thường kèm theo lượng giá. Trong mỗi cái nhìn đều có chút phán đoán của lý trí và chút gần xa của trái tim.

 

Những cái nhìn đó chi phối cách sống và đối xử. Chính vì thế mà ta cần xét mình về những cái nhìn của ta.

 

Khi việc xét mình đó được thực hiện trong lửa trái tim Chúa Giêsu, ta sẽ thấy : Đàng sau mọi cái nhìn của ta cần có sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.

 

Thực vậy, Chúa Thánh Thần sẽ giúp ta phân định con đường nào Người đang hướng dẫn lịch sử Hội Thánh và nhân loại.

 

Con đường đó là tình yêu đi về Thiên Chúa tình yêu.

 

Tình yêu đang được Chúa gieo trồng khắp nơi dưới nhiều hình thức bằng nhiều người thiện chí. Thí dụ.

 

-         Những người phục vụ trong vị tha yêu thương.

-         Những người xây dựng sự hiệp thông, hiệp nhất.

-         Những người dấn thân cho người nghèo.

-         Những người nối kết an hoà các biên cương.

-         Những tôn giáo gắn bó với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.

-         Những người sống trút bỏ cái tôi ích kỷ.

 

Nhờ ánh sáng Chúa Thánh Thần đàng sau những cái nhìn thời sự hiện nay, chúng ta có thể đoán được số phận của ta trong tương lai đất nước. Nếu con đường lịch sử đang đi về tương lai là dòng tình yêu với những hình thức tiến triển, mà nếu ta cứ mãi tự mãn dưới đáy giếng khô cạn của cái tôi kêu ngạo, thì ta sẽ tự mình đào thải mình. Hơn nữa, ta sẽ mắc tội với Chúa tình yêu.

 

  1. Đàng sau những khát vọng.

 

Khát vọng đang là một làn sóng thần tràn vào các tâm hồn. Có khát vọng tốt và rất tốt. Có khát vọng xấu và cực kỳ xấu.

 

Trong đạo, vô số tín hữu bình thường đang chạy theo nhiều khát vọng mới có vẻ như làm sáng danh đạo của mình. Nhiều chốn tu trì cũng đang đua nở các thứ khát vọng mới mang nhãn hiệu như phát triển đạo Chúa.

 

Bao lần tôi đã bị cuốn hút vào những làn sóng khát vọng đó, vì tôi tưởng tất cả đều hoàn toàn do Chúa, và từ Chúa.

 

Nhưng, trong những ngày tĩnh tâm thinh lặng, khi lửa trái tim Chúa soi lại đàng sau những khát vọng sôi động đó, tôi mới thấy có một khát vọng căn bản cần hơn mọi khát vọng. Đó là khát vọng vâng phục thánh ý Chúa. Mà muốn biết vâng phục thánh ý Chúa, thì phải cầu nguyện và tỉnh thức.

 

Tôi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện tại vườn Cây Dầu : “Cha ơi ! Cha có thể làm được mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha “ ( Mc 14, 36). Rồi Chúa Giêsu nói với mấy môn đệ ở đó : “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” ( Mc 14, 38).

 

Kinh nghiệm cho tôi thấy : Trong rất nhiều toan tính, thánh ý Chúa khác hẳn  ý riêng ta, mà ta không nhận ra và cũng không muốn nhận. Trong rất nhiều trường hợp, ta như tưởng rằng : Có được những phương tiện trần thế là thắng được ma quỷvà các chước cám dỗ của chúng.

 

Đó là một sự sai lầm đã gây ra bao nhiêu thiệt hại cho Nước Chúa tình yêu.

 

  1. Đàng sau những phấn đấu

 

Hiện nay, con người được kính trọng và đáng kính trọng là con người phấn đấu cho hạnh phúc của con người và trưởng thành của chính mình. Phấn đấu  không ngừng. Phấn đấu không bao giờ tự cho là đủ.

 

Có nhiều cách phấn đấu. Nhưng cách phấn đấu nào được tu đức căn dặn nhiều nhất. ?

 

Thưa là cách phấn đấu không để cái tôi của ta bị bất cứ sự ác nào cai trị, khống chế, lôi kéo. Đó là một nhận thức quý giá mà lửa trái tim Chúa soi cho ta đàng sau các phấn đấu hằng ngày.

 

Đây là một phấn đấu cực kỳ khó khăn. Thánh Phaolô đã từng tâm sự : ‘Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng sự ác, tôi không muốn, thì tôi lại làm…Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? Tạ ơn Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta’ ( Rm 7, 19- 25).

 

Tôi thấy : Nhiều người trong chúng ta đã rất phấn đấu để có tiền bạc và những phương tiện tốt, hầu cho các sinh hoạt tôn giáo và đời sống đồng bào được khả quan hơn, đồng thời để chính mình được phát triển. Nhưng, khi lửa trái tim Chúa soi vào đàng sau những phấn đấu đó, ta thấy con người phấn đấu của ta nhiều khi lại chẳng may bị thua ê chề. Bởi vì chính bản thân ta không biết nương tựa vào Chúa Giêsu. Nên mục đích phấn đấu không hoàn toàn trong sạch. Cách phấn đấu mang quá nhiều tính duy trần tục. Thành quả phấn đấu có phần gây hại cho Tin Mừng.

 

Trên đây là một chia sẻ được giới hạn trong việc sửa mình.

 

Hãy để lửa Thánh tâm soi vào đàng sau những cái nhìn, những khát vọng, những phấn đấu của ta.

 

Khi thực hiện đúng những điều kiện trên, ta sẽ nhận ra vô số điều cần sám hối và đền ta. Hãy sám hối và đền ta trong lửa Thánh tâm.

 

Điều quan trọng là ta tin Chúa Giêsu vốn ở bên ta. Người giàu lòng thương xót. Người nhìn ta.Người đang nói với ta : ‘Thầy không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi’ (Mt 9, 12).

 

Dù ta nghèo về mọi mặt, nhưng nếu ta khiêm nhường dâng lên Chúa tất cả tấm lòng chân thành của ta, như một của lễ, thì chắc chắn Chúa sẽ thương đoái nhận. Người đã làm như thế đối với bà goá nghèo xưa chỉ dâng hai đồng xu cho nhà thờ (x Mc 12, 43-44)

 

ĐGM. GB. Bùi Tuần

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Đức Thánh Cha tôn phong bốn vị thánh

 

Hôm Chúa nhựt kính lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Thánh Cha đã chủ sự lễ phong thánh cho bốn chân phước thuộc các quốc gia Malta, Ba-lan, Hà-lan, Pháp. Như quý vị đã biết, dưới triều đại của đức Bênêđictô XVI, ngài cử đại diện, thường là Hồng y tổng trưởng bộ Phong thánh, để chủ toạ các lễ phong chân phước, và chỉ đích thân chủ sự các lễ phong thánh mà thôi. Hôm qua là lễ phong thánh lần đầu tiên trong năm 2007 tại Rôma, tiếp sau lễ phong thánh diễn ra hồi tháng trước nhân chuyến viếng thăm Brasil. Vì con số khách hành hương rất đông (khoảng 40 ngàn người), buộc lòng phải tổ chức Thánh lễ ngoài trời mặc dầu trời mưa tầm tã. Danh sách các thượng khách cũng nói lên phần nào tính cách long trọng của buổi lễ, với bốn vị quốc trưởng : hai bà Tổng thống Cộng Hoà Ai-len, và Philippin (Mary McAleese, Gloria Macaparal Arroyo) hai ông Tổng thống Malta, Ba-lan (Edward Fenech Adami, Lech Kaczynski) ; phu nhân của Tổng thống Mexicô (bà Margarita Zavala), còn nước Pháp và Hà lan thì cử Bộ trưởng cầm đầu phái đoàn chính phủ. Đó là chưa kể các Hồng y và giám mục dẫn đầu các phái đoàn hành hương từ các nước nơi mà các dòng tu đặt cơ sở.

 

Bốn vị tân hiển thánh là: l/ linh mục Giorgio Preca (1880-1962), nước Malta, sáng lập vien của Hội đạo lý Kitô giáo gồm các giáo dân dạy giáo lý; 2/ Szymon z Lipnicy (Simon Lipnica Murowana, k.1435-1482) linh mục dòng Phan-sinh người Balan, một nhà giảng thuyết nổi tiếng, và chết vì bệnh dịch sau khi đã dấn thân phục vụ các bệnh nhân; 3/ linh mục Karel van Sint Andries Houben (1821-1893) linh mục dòng Chúa Chiụ nạn, người Hà lan nhưng sinh hoạt và qua đời bên Ai-len; 4/ Mẹ Marie-Eugènie de Jésus Milleret (1817-1898) người Pháp, sáng lập dòng các nữ tu Đức Mẹ Lên trời. Tiểu sử của các ngài đã được tóm lại trong thỉnh nguyện phong thánh do đức hồng y Saraiva Martins đọc sau kinh “Xin Chúa Thương xót”, được Đức Thánh Cha bình giảng khi chú giải các bài đọc Sách Thánh của lễ Chúa Ba Ngôi.

Bài đọc Một, trích từ chương 8 sách Châm ngôn, nói đến Đấng Khôn ngoan ở bên cạnh Thiên Chúa vào lúc tạo dựng. Sự Khôn ngoan của Thiên Chúa được biểu lộ qua muôn vàn kỳ diệu của vũ trụ, nhất là nơi các vị thánh. Bài đọc Hai, trích từ thư gửi các tín hữu Rôma, nói đến Thần khí đổ tràn tình yêu của Thiên Chúa xuống tâm hồn chúng ta, biến đổi chúng ta nên giống với Đức Kitô. Tư tưởng tương tự cũng gặp thấy trong bài Phúc âm, khi thánh Gioan nói đến Thánh Thần tỏ bày chân lý của Đức Kitô cho các môn đệ. Dưới nhiều từ ngữ khác nhau, nội dung vẫn là một, đó là Chúa Thánh Thần là Đấng đã nhào nặn các thánh, giúp cho trở nên đồng hình đồng dạnh với Đức Kitô. Đến đây ngài chuyển sang phần mô tả chân dung của mỗi vị.

1/ Thánh Giorgio Preca sinh tại La Valletta trong đảo Malta, là một linh mục dâng hiến trót đời cho công cuộc rao giảng Tin mừng, bằng sách báo, bằng sự linh hướng, bằng việc ban bí tích và nhất là bằng đời sống gương mẫu. Đoạn văn Tin mừng thánh Gioan “Verbum caro factum est” (Ngôi Lời đã trở nên người phàm) đã định hướng tất cả ý chí và hành động của cha, và vì thế Chúa đã dùng cha để khai sinh cho “Hội Đạo lý Kitô giáo”, nhắm cung cấp cho các giáo xứ những giáo lý viên lành nghề và quảng đại. Ngài thường lặp đi lặp laị với Chúa: “Lạy Chúa, con mang ơn Chúa quá nhiều! Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa và xin Chúa tha thứ cho con!” Mong rằng thánh Giorgio Preca sẽ giúp cho Hội thánh tại Malta và trên khắp thế giới, được trở nên tiếng vọng trung thành của Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập thể.

2/ Sang đến vị thánh thứ hai, Đức Thánh Cha giảng bằng tiếng Ba lan: “Thánh Simon Lipnica, người con yêu quý của đất Balan, chứng nhân của Chúa Kitô và môn đệ của thánh Phanxicô Assisi, sống vào thời buổi cách xa chúng ta, nhưng hôm nay được trưng bày cho Giáo hội như là mẫu gương của một Kitô hữu, được Tin mừng thúc đẩy, đã sẵn sàng hiến mạng sống cho anh em mình. Được đầy tràn tình yêu Chúa kín múc từ Thánh Thể, cha không ngần ngại đi giúp đỡ những người mắc bệnh dịch, và đã nhiễm lấy cơn bệnh đưa mình đển cõi chết. Ngày hôm nay, chúng ta ký thác cách riêng cho ngài những người đau khổ vì nghèo, bệnh, cô đơn và bất công xã hội. Nhờ lời chuyển cầu của ngài, chúng ta hãy xin Chúa ban cho tình yêu bền vững và hoạt động, dành cho Đức Kitô và cho anh em mình.

3/ Cuộc đời của vị thánh thứ ba quê ở Hà Lan nhưng hoạt động tại Áilen đã được ca ngợi bằng tiếng Anh như sau: “Lòng mến Chúa đã đuợc đổ tràn xuống lòng chúng ta nhờ Thánh Linh được ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Trong cuộc đòi của cha Charles Houben, dòng Chúa Chịu nạn, chúng ta đã thấy thật đúng như vậy: cha đã để cho tình yêu được trào ra qua cuộc sống dành cho các linh hồn. Trong những năm tháng lâu dài của sứ vụ linh mục tại nước Anh và Ailen, các tín hữu lũ lượt đến với cha để xin lời chỉ bảo, sự an ủi và chữa lành tâm hồn. Nơi người bệnh tật và đau khổ, cha nhận ra khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu, mà cha có lòng sùng kính đặc biệt. Cha đã uống nước trào ra từ cạnh sườn của Đấng bị đâm thủng và nhờ quyền năng của Thánh Linh, cha đã làm chứng cho tình thương của Thiên Chúa là Cha. Vào lúc cử hành lễ an táng của cha, bề trên hết sức cảm động đã thốt lên: “Nhân dân đã tuyên bố cha là ông thánh rồi”.

4/ Sau cùng, bằng tiếng Pháp, Đức Thánh Cha đã diễn tả cuộc đời của Mẹ Marie Eugénie Milleret như tấm gương cho thấy tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể đối với đời sống Kitô hữu và sự tiến triển tâm linh. Chính chị đã ghi lại rằng ngày rước lễ lần đầu đã để lại một ấn tượng sâu sắc tuy rằng mãi về sau bản thân mới nhận thức được. Chúa Kitô hiện diện nơi thâm sâu của lòng chị, đã tác động trong chị, đi theo nhịp bước của chị, giúp chị tìm kiếm con đường tâm linh, và đạt đến chỗ trao hiến toàn thân cho Chúa trong đời tu trì, đáp lại những đòi hỏi của thời đại. Chị nhận ra tầm quan trọng của việc cung cấp cho các thiếu nữ một nền giáo dục trí thức, đạo đức và tinh thần, ngõ hầu họ có khả năng đảm nhận trách nhiệm trong gia đình cũng như góp phần xây dựng Giáo hội và xã hội. Trong suốt đời, Mẹ Marie Eugénie tìm được súc mạnh để thực hành sứ vụ ở nơi đời cầu nguyện, liên kết chiêm niệm với hoạt động. Mong rằng tấm gương của Mẹ sẽ mời gọi những con người thời nay hãy biết trao lại cho thế hệ trẻ những giá trị giúp cho họ trở nên trưởng thành can trường và làm chứng nhân cho Chúa Phục sinh. Ước gì các bạn trẻ đừng sợ hãi khi đón nhận những giá trị luân lý và tinh thần, khi mang ra thực hành cách trung thành và kiên nhẫn.

Kết luận bài suy niệm về cuộc đời bốn vị tân hiển thánh, Đức thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu đã thực hiện nơi các vị thánh. Chúng ta hãy để cho mình thu hút bởi tấm gương của các ngài, hãy để cho mình được hướng dẫn bởi giáo huấn của các ngài, ngõ hầu trót cuộc sống của chúng ta cũng trở nên như các ngài là mọt bài ca chúc tụng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi, Xin Mẹ Maria và các người anh chị của chúng ta cầu bầu cho chúng ta được ơn đó, Amen.

Thánh lễ kết thúc vào lúc 12 giờ trưa, giữa những cơn mưa và những lúc tạnh, khiến cho các tín hữu có lúc phải bung ô và có lúc phải gấp lại. Trước khi ban phép lành kết thúc, đức thánh cha đã gửi lời chào thăm các phái đoàn bằng nhiều ngôn ngữ, và không quên cám ơn sự kiên nhẫn của họ phải chịu đựng thời tiết xấu. Kế đó, ngài đã đọc kinh Truyền tin kính Đức Mẹ.



Đại Hội Thánh Thể 2008 được tổ chức tại Canada

 

Roma, ngày 5/6/2007 (Zenit) – Hội Đồng Giám Mục Canada (http://www.cecc.ca) đã kêu gọi tất cả các tín hữu Công Giáo tích cực chuẩn bị cho Đại Hội Thánh Thể 2008 bằng cách quảng đại đóng góp cho cuộc lạc quyên toàn quốc vào ngày mùng 9 và 10 tháng 6 dành cho việc tổ chức sang năm.

 

Canada sẽ đứng ra tổ chức Đại Hội Thánh Thể quốc tế lần thứ 49 tại thành phố Quebec từ ngày 15 đến 24/6/2008. Ban tổ chức dự đoán sẽ có chừng 15.000 tham dự và nhiều ngàn người khác sẽ đến tham dự các biến cố xoay quanh Đại Hội.

 

Tất cả các tín hữu Công Giáo Canada được kêu mời tích cực tham gia Hội Nghị này, trước nhất bằng việc canh tân lòng tin kính Phép Thánh Thể và tiếp đến là trợ giúp tài chính cho nhiều sinh hoạt đã được ghi trong chương trình. Một cuộc lạc quyên đặc biệt sẽ được tổ chức trong tất cả các giáo xứ vào ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa mùng 9 và 10.6 năm nay.

 

Thư chung của HĐGM Canada kêu gọi : « những người lãnh trách nhiệm tổ chức tin tưởng nơi lòng quảng đại đóng góp của mọi người để giúp cho cuộc họp mặt chắc chắn sẽ mang lại thành quả thiêng liêng và chắc chắn sẽ có kết quả tích cực trên đời sống của giáo hội chúng ta ».

 

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH G-8

 

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các vị lãnh đạo tham dự Hội nghị Thượng Đỉnh G-8, tiến hành từ ngày 6 đến 8-6-2007, tại Bắc Đức, hãy giữ lời hứa gia tăng viện trợ phát triển cho các nước nghèo nhất là tại Phi châu.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng ngày 6-6-2007 trước 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói: ”Hôm nay Hội nghị Thượng đỉnh thường niên của các vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ thuộc khối G-8, nghĩa là 7 nước công nghệ cao nhất thế giới cộng với Liên bang Nga, khai diễn tại Heiligendamm bên Đức, dưới quyền chủ tọa của Cộng hòa Liên bang Đức. Ngày 16-12 năm ngoái, tôi đã có dịp viết cho Bà Thủ tướng Angela Merkel để, nhân danh Giáo Hội Công Giáo, cám ơn Bà vì quyết định duy trì trong chương trình nghị sự của G-8 đề tài nghèo đói trên thế giới, đặc biệt chú ý đến Phi châu. Tiến sĩ Merkel đã nhã nhặn trả lời tôi ngày 2-2 năm nay, cam đoan với tôi về sự dấn thân của khối G-8 để đạt tới những mục tiêu phát triển đề ra trong Tuyên ngôn Ngàn năm mới. Giờ đây tôi muốn tái kêu gọi các vị lãnh đạo nhóm họp tại Heiligendamm, để đừng lỗi lời hứa gia tăng đáng kể viện trợ phát triển, trợ giúp các dân tộc túng thiếu nhất, đặc biệt là dân chúng ở Phi châu.”

ĐTC nói thêm rằng: ”Theo chiều hướng đó, mục tiêu lớn thứ hai trong Tuyên ngôn về ngàn năm mới cũng đáng đặc biệt chú ý, đó là ”đạt tới nền giáo dục sơ cấp cho tất cả mọi người; đảm bảo sao cho mỗi trẻ em nam nữ hoàn tất toàn bộ học trình sơ cấp từ nay tới năm 2015”. Mục tiêu này là thành phần trong toàn bộ các mục tiêu khác của ngàn năm mới; đó cũng là một sự bảo đảm củng cố các mục tiêu đã đạt tới; là điểm khởi hành trong những tiến trình phát triển độc lập và lâu bền”.

ĐTC nhắc lại rằng: “Không nên quên điều này là Giáo Hội Công Giáo luôn đi hàng đầu trong lãnh vực giáo dục, đặc biệt tại các nước nghèo nhất, Giáo Hội đi tới cả những nơi mà các cơ cấu của Nhà Nước không đi tới được. Các Giáo Hội Kitô khác, các nhóm tôn giáo và các tổ chức của xã hội dân sự cũng chia sẻ cùng sự dấn thân giáo dục ấy. Đó là một thực tại mà, khi áp dụng nguyên tắc phụ đới, các chính quyền và các tổ chức quốc tế được kêu gọi nhìn nhận, đề cao giá trị và nâng đỡ, kể cả bằng những đóng góp tài trợ thích hợp”.

Trong tuyên ngôn hồi đầu Ngàn năm thứ ba do LHQ đề xướng, các nước hứa làm giảm bớt một nửa số người nghèo đói trên thế giới vào năm 2015. Hồi đó số người đói trên thế giới là 800 triệu, nhưng nay, con số đó chẳng những không giảm nhưng còn tăng lên 850 triệu người (SD 6-6-2007)

 

Sứ Ðiệp của ÐTC Beneđitô XVI cho ngày Thế giới Truyền Giáo lần thứ 81 (Chúa Nhật 21.10.2007)

 

Anh chị em thân mến,

 

Nhân ngày Thế Giới Truyền Giáo tôi mời gọi toàn thể Dân Chúa- các giám mục, linh mục, các tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân cùng nhau suy tư về sự khẩn thiết và tầm quan trọng của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội trong thời đại chúng ta. Một lời kêu gọi bao quát và thành khẩn như thế sẽ tiếp tục làm vang lên những lời trong mệnh lệnh truyền giáo mà Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, trước khi lên trời đã uỷ thác cho các Tông Đồ : “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều  Thầy đã truyền cho anh em”, rồi Người thêm: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 19- 20). Trước nhiệm vụ truyền giáo cấp thiết này chúng ta được nâng đỡ và được phụ trợ vì xác tín rằng Người là chủ mùa gặt luôn ở với chúng ta và không ngừng hướng dẫn dân của Người. Chúa Kitô là nguồn mạch bất tận của công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Một biến cố khác trong năm nay càng thôi thúc chúng ta dấn thân truyền giáo hơn nữa: đó là dịp kỉ niệm 50 năm ngày ban hành Thông điệp Fidei Donum (Hồng ân Đức Tin) của Tôi Tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng Piô XII, nhằm xúc tiến và cổ vũ sự cộng tác giữa các Giáo Hội để truyền giáo cho mọi dân tộc.

 

“Các Giáo Hội cho Toàn Thể Thế Giới” đó là chủ đề được chọn cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay. Đó là lời kêu gọi gửi tới các Giáo Hội địa phương trên mọi lục địa nhằm cùng nhau tái khám phá nhu cầu khẩn thiết phải tái phát động hoạt động truyền giáo để đối phó với nhiều thách thức nghiêm trọng trong thời đại chúng ta. Chắc chắn hoàn cảnh sống của con người ngày nay đã thay đổi, và trong những thập kỉ vừa qua, đặc biệt từ Công Đồng Vatican II, biết bao nỗ lực đã được thực hiện để loan truyền Tin Mừng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điều cần phải thực hiện để đáp lại lời kêu gọi truyền giáo mà Chúa không ngừng truyền cho mọi Kitô hữu. Người tiếp tục kêu gọi, trước hết là các Giáo Hội được coi là “trưởng thành” mà trong quá khứ đã cung ứng chẳng những phương tiện vật chất lại còn rất nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân cho công cuộc truyền giáo, tạo nên sự hợp tác hữu hiệu giữa các cộng đồng Kitô giáo. Sự hợp tác này đã đem lại những kết quả truyền giáo dồi dào vừa cho Giáo Hội trong các xứ truyền giáo và cho cả các cộng đồng Giáo Hội đã gửi các nhà truyền giáo đi. Đối diện với sự lan rộng của văn hoá duy tục càng ngày càng lấn sâu vào xã hội tây phương, các Giáo Hội này đang rơi vào nguy cơ chỉ tập trung vào chính mình khi nhận thấy những khủng hoảng trong gia đình, sự sút giảm ơn gọi và sự lão hoá hàng giáo sĩ, để rồi thiếu hi vọng vào tương lai và giảm bớt lòng nhiệt thành truyền giáo. Tuy nhiên chính lúc này mới là thời gian để mở rộng lòng tin tưởng vào sự Quan phòng của Thiên Chúa là Đấng chẳng bao giờ bỏ rơi dân Người, nhưng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần Người hướng họ về việc hoàn tất kế hoạch cứu chuộc đời đời của Người.

 

Cũng vậy các Giáo Hội mới đón nhận Tin Mừng cũng được Vị Mục Tử tốt mời gọi để quảng đại hi sinh vào việc truyền giáo cho muôn dân. Dù gặp một số các khó khăn và nghịch cảnh trong việc mở rộng, các cộng đồng này vẫn tiếp tục tăng triển. Diễm phúc thay một số cộng đoàn có rất nhiều linh mục và tu sĩ mà nhiều người trong họ, dù nhu cầu địa phương đòi hỏi, vẫn được gửi đi một nơi nào đó để thực thi sứ vụ mục tử và phục vụ truyền giáo, ngay cả trong những miền truyền giáo cố cựu. Và như thế chúng ta nhận ra sự diệu kì của việc “hoán chuyển các ơn ban ”, được cống hiến một cách phong phú vì lợi ích của toàn Nhiệm Thể Chúa Kitô. Tôi thực sự hi vọng rằng việc hợp tác truyền giáo sẽ còn trở nên sống động hơn khi mỗi cộng đồng phân định  khả năng và đặc sủng của riêng mình. Tôi cũng hi vọng rằng Ngày Thế Giới Truyền Giáo sẽ giúp cho mọi cộng đồng Kitô giáo cũng như mọi Kitô hữu ý thức hơn về đặc tính phổ quát lời mời gọi của Chúa Kitô là mở rộng Nước Trời đến cùng cõi trái đất. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp Redemptoris Missio: “Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo ”- bởi vì lệnh truyền của Chúa Kitô không phải là một cái gì tuỳ phụ, nhưng đi vào căn cốt của Giáo Hội. Do đó Giáo Hội phổ quát cũng như mỗi giáo hội địa phương đều được sai đi đến với các dân tộc. Chính “để lòng nhiệt thành truyền giáo này bừng nở trong mọi dân nước ,” mà thật thích hợp là các giáo hội non trẻ cần phải“càng sớm hết sức có thể chia sẻ công việc truyền giáo của Giáo Hội . Chính họ phải gửi các nhà thừa sai để rao giảng Tin Mừng trên khắp thế giới , dẫu họ cũng đang chịu cảnh thiếu giáo sĩ” (s. 62).

 

Năm mươi năm trôi qua kể từ lời hiệu triệu lịch sử của vị tiền nhiệm của tôi, Đức Piô XII với thông điệp Fidei Donum về việc hợp tác giữa các Giáo Hội để phục vụ công cuộc truyền giáo, tôi vẫn khẳng định rằng việc loan báo Tin Mừng vẫn cấp bách và hợp thời. Trong thông điệp Redemptoris Missio, về phần mình, Đức Gioan Phaolô II viết “sứ vụ của Giáo Hội thì rộng lớn hơn ‘sự hiệp thông giữa các giáo hội’; do đó  chúng ta không chỉ hướng về việc tái truyền giảng Tin Mừng nhưng trước tiên còn phải hướng về việc truyền giáo nữa (64)”. Bởi đó như chúng đã nhiều lần đề cập, lòng nhiệt thành truyền giáo vẫn còn là việc ưu tiên phục vụ, mà giáo hội mắc nợ nhân loại hôm nay, để định hướng và phúc âm hoá các biến chuyển về văn hoá, xã hội và đạo đức, và để trao ban ơn cứu chuộc của Chúa Kitô cho mọi người hôm nay đang bị lăng mạ và áp bức tại nhiều miền trên thế giới vì sự nghèo đói, bạo lực và việc phủ nhận nhân quyền một cách có hệ thống.

 

Giáo Hội không thể thoái thác sứ vụ phổ quát này; đó là một đòi buộc. Khi đầu tiên Chúa Kitô uỷ thác mệnh lệnh truyền giáo cho Phêrô và các Tông Đồ thì trước nhất là cho Đấng kế vị Thánh Phêrô mà sự quan phòng của Chúa đã chọn để làm nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất của Giáo Hội, rồi đến các Giám mục là đấng chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc truyền giáo vì là thành viên của Giám Mục Đoàn và là mục tử của các Giáo Hội địa phương (x. Redemptoris Missio, 63). Bởi đó, tôi hối thúc các Giám mục trong tất cả các Giáo Hội mà Chúa đã chọn để dẫn dắt đoàn chiên duy nhất của Người, hãy chia sẻ lòng nhiệt thành rao giảng và truyền bá Tin Mừng. Đó là ý nguyện đã hướng dẫn tôi tớ Chúa, Đức Piô XII năm mươi năm trước đặt định việc hợp tác truyền giáo cho thích hợp hơn để đáp ứng các nhu cầu của mọi thời đại. Đặc biệt khi xét đến việc truyền giảng Tin Mừng ngài mời gọi các Giáo Hội và các cộng đồng đã đón nhận Tin Mừng lâu năm hãy gửi các linh mục đến giúp các Giáo Hội mới được thành lập. Và như thế ngài đã khơi lên một “tác nhân truyền giáo” mới mà  những từ đầu tiên của thông điệp đã lấy tên là Fidei Donum. Ngài viết: “Một đàng, khi chúng tôi hướng tâm tư về vô số những con cái của chúng tôi đã tham dự vào hồng ân đức tin, nhất là trong các nước đã có một truyền thống Kitô lâu đời, nhưng đàng  khác khi chúng tôi nhận thấy rất nhiều đoàn người vẫn còn đang đợi chờ ngày cứu chuộc được loan báo cho họ, thì chúng tôi luôn hết sức tha thiết hối thúc Chư Huynh với sự quan tâm nhiệt thành, hãy nâng đỡ việc tuyệt đối thánh thiện là đem Giáo Hội của Chúa đến khắp cả thế giới.”- và ngài thêm - “Ước gì những lời nhắc nhở của chúng tôi sẽ khơi lên một sự quan tâm hăng hái trong sứ vụ truyền giáo nơi các linh mục của chư huynh và qua họ làm cho tâm hồn các tín hữu được bừng cháy !” (Fidei Donum s.4).

 

Chúng ta cảm tạ Chúa vì những hoa trái dồi dào trong việc hợp tác truyền giáo tại Châu Phi và miền khác trên thế giới. Các linh mục sau khi bỏ lại cộng đoàn nguyên thuỷ của mình đã đem tất cả năng lực truyền giáo để phục vụ các cộng đồng mà một số mới được tạo lập trong những miền nghèo túng và đang phát triển. Trong số họ không ít các vị tử đạo đã đan kết chứng từ về lời nói và việc tận hiến cho truyền giáo bằng hiến lễ là chính mạng sống của họ. Chúng ta cũng thể quên những tu sĩ nam nữ và những thừa sai giáo dân đã cộng tác với các linh mục để loan truyền Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Xin cho ngày truyền giáo trở thành một dịp để trong niềm tin tưởng nhớ đến tất cả anh chị em này cũng như tất cả mọi người đang tiếp tục làm việc trong cánh đồng truyền giáo bao la bằng lời cầu nguyện. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để những gương sáng của họ sẽ khơi lên khắp nơi những ơn gọi mới cũng như giúp các Kitô hữu ý thức sâu xa hơn việc truyền giáo. Thật vậy mỗi cộng đồng Kitô bản chất là truyền giáo, và thật sự là can đảm khi Tin Mừng hoá những gì là phương thế  để giúp cho những người tin yêu mến Chúa. Chúng ta có thể cho rằng đối với mỗi người Công Giáo, vấn đề không chỉ là hợp tác với hoạt động rao giảng Tin Mừng, mà còn hơn thế nữa, họ phải ý thức rằng chính họ cũng là những sứ giả truyền giáo, họ cũng chia sẻ trách nhiệm truyền giáo của Giáo Hội. Trách nhiệm chia sẻ truyền giáo này có nghĩa là việc hiệp thông giữa các cộng đồng phải được gia tăng và việc hỗ trợ lẫn nhau liên quan đến vấn đề nhân sự phải được đẩy mạnh (các linh mục, các tu sĩ, và các thừa sai giáo dân) cũng như các phương tiện cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng hôm nay.

 

Anh chị em thân mến, mệnh lệnh truyền giáo mà Chúa Kitô uỷ thác cho các Tông Đồ thật sự liên quan đến tất cả chúng ta. Ước gì Ngày Thế Giới Truyền Giáo trở thành một dịp để gia tăng ý thức và cùng nhau hoạch định những lộ trình thiêng liêng và đào tạo một cách thích hợp để nuôi dưỡng sự hợp tác giữa các Giáo hội và việc huấn luyện nhiều nhà thừa sai hơn để loan truyền Tin Mừng trong thời đại chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng sự đóng góp ưu tiên và tuyệt hảo mà chúng ta được kêu gọi để góp phần vào việc truyền giáo của Giáo Hội là lời cầu nguyện. Chúa nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt ra gặt lúa về ”( Lc10, 2). Đức Giáo Hoàng Piô XII viết năm mươi năm trước, “Chư huynh đáng kính, càng ngày chư huynh càng phải cầu nguyện tha thiết với Chúa. Hãy luôn hướng lòng về rất nhiều người đang bị cuốn hút vào biết bao nhiêu những hiểm nguy thiêng liêng: những người rời xa khỏi con đường sự thật cũng như biết bao nhiêu người đang cần những phương thế để giữ vững đức tin.” ( Fidei Donum s. 55).Và ngài muốn có nhiều Thánh Lễ được dâng để chỉ cho việc truyền giáo khi ngài xét thấy rằng “điều này hợp với lời cầu nguyện của Chúa, Đấng yêu mến Giáo Hội và muốn Giáo Hội của Người phát triển cũng như mở rộng bờ cõi đến toàn thể thế giới .” (như trên s.52).

 

Anh chị em thân mến, hơn lúc nào hết tôi cũng nhắc lại lời kêu gọi này . Ước gì lời kêu gọi này lan đến mỗi cộng đoàn lời đồng thanh cầu nguyện “Lạy Cha chúng con ở trên trời ”, để nước Chúa hiển trị. Tôi đặc biệt kêu gọi các thiếu nhi và giới trẻ hãy sẵn sàng quảng đại cho việc truyền giáo. Tôi ngỏ lời tới các bệnh nhân và những người đau khổ, nhắc nhớ họ về giá trị của sự cộng tác kì diệu và không thể thiếu của họ đối với công trình cứu chuộc. Tôi mời gọi các tu sĩ, đặc biệt các dòng kín hãy gia tăng cầu nguyện cho việc truyền giáo. Xin cho các nỗ lực về phía mỗi người tín hữu trải rộng ra trên khắp Giáo Hội một mạng lưới thiêng liêng của việc cầu nguyện nhằm hỗ trợ việc truyền giáo. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng phù trợ Giáo Hội thời  sơ khai bằng sự quan tâm từ mẫu, hướng dẫn hành trình của chúng ta trong giai đoạn này và ban xuống cho chúng ta một Lễ Hiện Xuống mới của tình yêu. Xin Mẹ giúp chúng ta ý thức rằng chúng ta đều là những thừa sai, đều được Chúa sai đi để làm chứng cho Người trong mọi phút giây của cuộc sống. Tôi hứa hằng ngày cầu nguyện cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các thừa sai giáo dân đang hoạt động truyền giáo, cũng như tất cả mọi người, cách này hay cách khác, giúp vào việc loan báo Tin Mừng, và tôi thân ái ban Phép Lành Tông Toà cho mọi người.

 

 Từ Vatican, ngày 27 tháng Năm, 2007,  Lễ Trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

 

 BENEDICTUS PP. XVI

 

 

 Lm. Giuse Ngô Quang Trung dịch

 

Thánh Lễ Khánh Thành Nhà Thờ Phương Hòa, Giáo hạt Kontum, Giáo Phận Kontum.

 

Kontum, Việt Nam (5/06/2007) - Ngày 05.6.2007, sau hơn 26 tháng thi công, ngôi thánh đường mới mang tước hiệu Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, bổn mạng giáo xứ Phương Hoà, đã hoàn thành. Với diện tích tổng cộng: 928 m2 (dài 40m x rộng 20m + diện tích 2 phòng lồi: 128 m2).

Nhà thờ Phương Hoà thuộc Giáo hạt Kontum, Giáo phận Kontum, ngôi nhà thờ được xây dựng khang trang cao lớn nằm đối diện con sông Ðakbla thơ mộng của thị xã Kontum.

Ðược biết Giáo xứ Phương Hoà, có gần 105 năm tuổi hình thành và phát triển (hình thành năm 1903), đã có 6 linh mục Hội Thừa sai Paris và 13 linh mục Việt Nam chăm sóc. Trải qua nhiều thăng trầm, di tản thời chiến hay di cư từ các nơi khác đến, hiện nay giáo xứ có gần 550 hộ công giáo, gồm 2351 tín hữu.

Hiện nay Giáo xứ Phương hoà do cha hạt trưởng Giuse Ðỗ Hiệu, làm chánh xứ đã hơn 10 năm, ngoài ra, Cha Giuse còn kiêm thêm Giáo xứ Tân Ðiền và Trung Nghĩa, với hơn 5,000 giáo dân.

Vào lúc 9g45 sáng, Ðức Cha Micae Hoàng Ðức Oanh và đoàn đồng tế gần 50 linh mục tiến lên gian cung thánh trong lời ca nhập lễ hân hoan, cùng tham dự có đông đảo tu sĩ nam nữ, quý thầy chủng viện và giáo dân trong và ngoài giáo xứ.

Khởi đầu Cha chánh xứ Giuse Ðỗ Hiệu, phát biểu đôi lời về lược sử những bước thăng trầm của Giáo xứ từ ngày thành lập cho đến hôm nay, nhất là vào những năm cuối thập niên của thế kỷ XX (năm 1999), ngôi nhà thờ cũ hư hỏng và xuống cấp trầm trọng sau gần 70 năm sử dụng, nên ngài đã hội ý với cộng đoàn quyết định xây dựng lại. Sau 6 năm chuẩn bị, nhà thờ mới đã được chính thức khởi công xây dựng vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh (25.03.2005). Nhân tiện đôi lời lược sử đầu lễ này, Cha Giuse cũng đã cám ơn những tấm lòng quảng đại của quý ân nhân trong và ngoài nước, cùng với sự nhiệt tình đồng lao cộng khổ của giáo dân trong giáo xứ, từ những ông cụ bà lão neo đơn dành dụm chút tiền do con cháu biếu xén, đến những em bé hy sinh tiền ăn quà hay lì xì các dịp lễ Tết bỏ bùng binh để góp phần xây dựng nhà Chúa, cùng với gần 2,500 công lao động của giáo dân, tham gia tháo dở nhà thờ cũ, đào lấp toàn bộ phần móng và đổ đất nền nhà thờ. Ngài cũng không quên cám ơn cách đặc biệt đến Ðức Cha Giáo phận đã ưu ái tạo điều kiện vật chất lẫn tinh thần để giáo xứ có được ngôi thánh đường khang trang như hôm nay.

Sau khi làm phép, rảy nước thánh, là phần phụng vụ Lời Chúa. Trong bài giảng dựa trên lời Chúa trong bài đọc 1 trích sách Nơkhêmia chương 8, về đền thờ được xây dựng kính Yavê của dân Do Thái thời Cựu Ước, đến bài Tin Mừng Ga 2,13-2 nói về việc Chúa Giêsu tẩy uế đền thờ Giêrusalem, khi Người đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ, và Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến đền thờ là chính thân thể Người. Ðức Cha Micae đã tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo xứ có được ngôi nhà thờ khang trang, vì thế phải biết thờ phượng Chúa cho xứng đáng, chứ không sẽ chẳng khác gì đền thánh Giêrusalem thời Chúa Giêsu. Nhưng sống, thờ phượng trong ngôi nhà thờ bằng xi măng, bằng đá, bằng cốt thép này, hay trang hoàng đẹp này thôi thì chưa đủ mà giáo xứ còn phải xây dựng và luôn luôn xây dựng ngôi đền thờ là chính bản thân mỗi người, như trong bài đọc 1 gửi tín hữu Côrintô: "Anh em là chính đền thờ của Thiên Chúa..." (x. 1Cr 3,16-17). Nghĩa là, từ nay mỗi tín hữu trong giáo xứ phải sống cho xứng đáng là một cộng đoàn cầu nguyện, có Chúa ở cùng trong cách buôn bán, làm ăn, nói năng... để làm sao, nơi mỗi người là Ðền Thờ Chúa Thánh Thần ngự, để ai tiếp xúc với giáo dân trong giáo xứ Phương Hoà này, họ cũng thấy khác, và họ nhận ra và nhất là sẽ thắc mắc về niềm tin mà mỗi tín hữu Phương Hoà đang sống. Có như thế, việc xây dựng hay khánh thành nhà thờ hôm nay mới có ý nghĩa cho ơn cứu độ nơi mỗi người, cho hậu thế và nhất là tiếp nối công trình cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại, Ngài muốn mỗi tín tiếp tục sứ mạng đó.

Sau bài giảng là phần cung hiến và xức dầu bàn thờ, tường nhà thờ...

Sau lời nguyện hiệp lễ, Ðức Cha Micae rước kiệu Mình Thánh Chúa đi vòng xuống cuối nhà thờ và đặt vào nhà tạm được đặt trang trọng bên cánh phải gian cung thánh. Tại đây, Ðức Cha và cộng đoàn cùng chầu Thánh Thể vài phút thật sống sắng, sau đó là kết lễ.

Trước khi kết thúc Thánh Lễ một đại diện giáo dân đã cám ơn Ðức Cha, Quý Cha, toàn thể cộng đoàn tham dự. Cách riêng tri ân Cha Giuse Chánh xứ đã hết lòng lo lắng cho giáo xứ.

 

Nathanael Hùng Lâm

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Lời Chủ Chăn

Kính gởi quý cha, quý tu sĩ, anh chị em giáo dân rất thân mến

Thưa anh chị em,

1. Trong mùa Rước lễ lần đầu và Thêm sức, tôi vui mừng thấy có nhiều con cháu anh chị em cùng nhiều anh chị em tân tòng, qua việc lãnh hai bí tích đó, đón nhận hồng ân cứu độ của Cha trên trời. Tôi vui mừng vì thấy hạt giống đức tin mà Chúa đã gieo vào thửa đất gia đình anh chị em và cộng đoàn giáo xứ đang phát triển xanh tươi. Vui mừng vì thấy những thửa đất đó được vun phân tưới nước và trở nên màu mỡ. Vui mừng vì lòng trân trọng của anh chị em đối với ơn đức tin là gia sản vô giá mà cha ông chúng ta đã đổ máu để gìn giữ, bảo vệ và lưu truyền cho chúng ta.Vui mừng vì thấy lòng trân trọng của anh chị em đối với hồng ân đức tin là cánh cửa mở ra cho mọi người đón nhận hai quà tặng vô cùng trọng đại từ kho tàng ơn cứu độ của Cha trên trời, là Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.

2. Món quà thứ nhất Thiên Chúa Cha thương ban là Đức Giêsu Kitô, là Lời yêu thương ban ánh sáng chân lý và khôn ngoan, là thần lương ban sức sống mới, ban ơn hiệp nhất và bình an cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn tín hữu. Món quà thứ hai là Chúa Thánh Thần, là Nguồn lực yêu thương ban cho chúng ta khả năng thi hành Lời Chúa dạy, khả năng sống chân lý Chúa truyền, là hiếu thảo tuân hành ý Cha chung trên trời, là sống tình huynh đệ tôn trọng, bao dung và tương trợ đối với nhau, đối với mọi người là anh em một nhà.

3. Năm nay là năm thứ 10 tôi đồng hành với anh chị em tại Thành Phố thân yêu nầy, là thời điểm nhắc nhở tôi nhìn lại tình hình và kết quả của 10 năm đồng hành với anh chị em, 10 năm đã cùng với anh chị em tuyên xưng đức tin, cử hành đức tin, loan truyền đức tin, vun tưới cho ơn đức tin nở hoa kết quả trong gia đình giáo phận, trong Thành phố, trên đất nước của chúng ta.

4. Tôi ước mong mỗi cộng đoàn giáo xứ, mỗi cộng đoàn tu, cũng nhìn lại như vậy, để chỉ cho nhau và cho tôi những sai lệch cần điều chỉnh, những thiếu sót cần được bổ sung, những lạc hậu cần được cập nhật. Và nhất là để cầu nguyện cho nhau luôn được đầy ơn Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới chúng ta ngày càng trở nên chứng nhân đức tin trung thực trên đất nước chúng ta và trên thế giới toàn cầu hoá hôm nay.

5. Xin anh chị em luôn cầu nguyện cho tôi cũng được như vậy. Xin Cha trên trời chúc lành cho từng người, từng gia đình, từng cộng đoàn trong gia đình giáo phận.

GB. Phạm Minh Mẫn

+ Hồng Y Tổng Giám mục

 

Lễ Khấn Dòng các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết

 

PHAN THIẾT -- Hôm nay Lễ Mẹ Thăm Viếng, Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết có thêm 24 Nữ Tu Khấn Lần Đầu và 11 Nữ Tu Khấn Trọn Đời.

 

Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, Giám Mục Phan Thiết chủ sự lễ Khấn Dòng. Cùng đồng tế có Đức Ông Lê Xuân Hoa, Tổng Đại Diện, 60 linh mục trong và ngoài giáo phận. Đông đảo tu sĩ nam nữ và thân nhân các tân khấn sinh sốt mến tham dự.


Khi tuyên khấn, người Nữ Tu muốn dâng hiến trọn đời mình cho Đức Kitô cả thể xác lẫn tâm hồn. Chúa Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí các Nữ Tu Mến Thánh Giá.


Đối với tôi, hình ảnh đẹp nhất ngày lễ khấn dòng là lúc người Nữ Tu quỳ gối trước mặt Đức Giám Mục đọc lời khấn hứa: Khó Nghèo, Khiết Tịnh, Vâng Phục.


Dựa vào gợi ý suy niệm của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, xin gởi đến các Tân Khân Sinh những tâm tình như là quà tặng mừng ngày hồng ân khấn dòng.


Bước theo Đức Giêsu khó nghèo, người Nữ Tu theo gương Mẹ Maria lên đường phục vụ tha nhân.


I. ĐỨC GIÊSU CON NGƯỜI NGHÈO :


Con người nghèo theo Kinh Thánh, trước hết là con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về bản thân, hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa, không cậy dựa vào trần gian. Người nghèo là sở hữu của Thiên Chúa, gia nghiệp của Thiên Chúa, là của riêng của Thiên Chúa. Đức Giêsu là người nghèo nhất trong số các người nghèo. Người nghèo nhất là người hạnh phúc nhất, vì Nước Trời là của họ. Đức Giêsu là người sống mối phúc thật thứ nhất trọn vẹn hơn cả. Nghèo, theo Phúc âm, không là bất hạnh, mà là không sở hữu. Người nghèo chỉ làm tôi một mình Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là quan trọng. Đức Giêsu là người nghèo, là Tôi Trung của Thiên Chúa. Người nghèo là người tự do thư thái đối với của cải vật chất. Người nghèo không có tham vọng. Đức Giêsu quả thực là người nghèo nhất, người tự do nhất, vì Người không chút bận tâm về ngày mai, không hề lo toan tích trữ, không cần chỗ nương tựa: “chồn có hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu” (Mt 8, 20; Lc 9, 58). Người nghèo không tự coi mình là quan trọng. Đối với người nghèo, tha nhân mới là quan trọng. Đức Giêsu chú trọng tới người khác, không chú trọng tới bản thân, không đòi hỏi người khác lo cho mình. Người chỉ kêu gọi người khác hãy tin vào Người, vì ai tin vào Người là tin vào Chúa Cha, Đấng đã sai Người, sẽ được sống đời đời.


II. THÁCH ĐỐ CHO ĐỨC KHÓ NGHÈO :


Đức khó nghèo, lời khấn khó nghèo liệu còn có ý nghĩa gì trong một nền văn minh tiêu thụ, trong xã hội theo chủ nghĩa hưởng thụ hôm nay hay không? Liệu người Kitô hữu có thể thực hành mối phúc thật đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy trong Hiến Chương Nước Trời hay không? Liệu những người tu sĩ có thực hành được lời khấn khó nghèo? Có hạnh phúc khi sống đời khó nghèo, trong một thế giới chỉ chạy theo tiền của? Trong một thế giới mà người ta dửng dưng với người nghèo, sống nghèo thì có ích lợi gì hay không? Một nguy cơ lớn cho thế giới chúng ta là sự thiếu quân bằng về sinh thái, vì lý do cạnh tranh của các nền kinh tế thị trường, liệu một linh đạo về khó nghèo có giúp ích gì cho nhân loại về vấn đề này hay không?


III. GIẢI ĐÁP CỦA ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN :


Đức khó nghèo theo Tin Mừng tự nó có giá trị rất lớn, vì là noi gương Đức Kitô khó nghèo, là thực hành mối phúc thật thứ nhất. Hạnh phúc trong đời sống tu trì là câu trả lời hùng hồn cho vấn đề ý nghĩa của đời sống khó nghèo. Đời sống thánh hiến làm chứng chỉ có Thiên Chúa mới là kho tàng đích thực của trái tim con người. Và đúng như Chúa Giêsu đã nói : kho tàng của con người ở đâu, thì lòng con người ở đó. Người tu sĩ khó nghèo luôn luôn hướng về Thiên Chúa, chỉ nghĩ tới Thiên Chúa. Khó nghèo trong đời sống thánh hiến tự nó là một chứng từ có sức thuyết phục chống lại việc tôn thờ tiền bạc. Ngoài ra, những người sống khó nghèo theo Tin Mừng còn có những đóng góp to lớn với xã hội, khi họ tích cực dấn thân phát huy sự liên đới giữa loài người, phát huy lòng bác ái vị tha là điều rất cần thiết cho đời sống con người. Người sống đời thánh hiến thường không tính toán trong công việc phục vụ những con người nhỏ bé nhất, nghèo nàn nhất. Biết bao là gương sáng của người tu sĩ đã và đang sống yêu thương phục vụ những người nghèo nhất.


Người sống đời thánh hiến được mời gọi sống thanh đạm và hãm bớt các ước muốn. Họ từ bỏ chính mình và sống tiết độ bằng: - Đời sống huynh đệ đơn sơ nhưng hiếu khách: có những cộng đoàn nhỏ, rất nghèo, nhưng không đóng kín hay tiếc xót với khách qua đường; họ có nhiều cơ hội đón được Chúa. - Tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo : chọn lựa người nghèo là chọn lựa dứt khoát của Chúa Giêsu và Hội Thánh. Các Dòng Tu mạnh dạn, rõ ràng, dứt khoát trong chọn lựa những đối tượng ưu tiên cho công việc phục vụ của mình. Hơn bao giờ hết, người tu sĩ hôm nay được mời gọi chia sẻ đời sống của những người cùng khốn, làm việc giữa những người nghèo và ngoài lề xã hội, âm thầm phục vụ không cần ai biết đến. Người sống đời thánh hiến cách trọn vẹn, luôn khao khát thông phần sự nghèo khó tột cùng của Đức Giêsu chịu đóng đinh. Tinh thần khó nghèo của Đức Giêsu rất cần thiết cho thế giới hôm nay, một thế giới luôn không ngừng tranh chấp. Ngày nay có một con đường rất hợp thời, mới mẻ được Hội Thánh đề cao, để thực tập nhân đức khó nghèo, sống tinh thần khó nghèo, đó là con đường đối thoại. Đối thoại là trường học khó nghèo tốt nhất, vì người muốn đối thoại, ngay từ đầu không sợ thiệt thòi, không sợ bị lừa, không sợ mất mát. Người muốn đối thoại sẵn sàng từ bỏ cái tôi ngay lúc ban đầu. Trong đối thoại, người khó nghèo sẵn sàng đón nhận người khác, đón nhận ý kiến, tư tưởng của người khác. Trường học đối thoại dạy cho con người biết lắng nghe cách chân thực, biết cho và nhận, biết tự hiến cho tha nhân và đón tiếp tha nhân vào mái ấm tâm hồn.


IV. THEO GƯƠNG MẸ MARIA, LÊN ĐƯỜNG PHỤC VỤ


Sau khi được hồng phúc cưu mang Đấng Cứu thế, Đức Mẹ đã đi thăm viếng bà Isave. Vừa thấy Đức Mẹ, bà Isave được ơn Thánh Thần soi sáng, đã cất tiếng chào Đức Mẹ và khen ngợi Đức Mẹ vì ơn đặc biệt Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Đức Mẹ rất xúc động. Đức Mẹ đã tạ ơn Chúa bằng những lời tán tụng rất khiêm cung: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng, Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới…” ( Lc 1, 46-48). Đức Mẹ nhìn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn đến.Với thân phận nữ tỳ hèn mọn, Đức Mẹ là một người nghèo chỉ biết phó thác vào Chúa, chỉ biết sẵn sàng thực hành bất cứ sự gì là thánh ý Chúa. Với thái độ trút bỏ tuyệt đối cái tôi của mình, Đức Mẹ tạ ơn Chúa vì được Chúa đoái thương nhìn đến, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn. Từ đó, Đức Mẹ lại tiếp tục sống ơn gọi một cách âm thầm nghèo khó.Người Nữ Tu được Chúa đoái thương tuyển chọn để thuộc về Chúa trọn vẹn. Từ nay theo gương Đức Mẹ, với hành trang là sự khó nghèo lên đường “thăm viếng”, phục vụ tha nhân với niềm vui và hạnh phúc của đời dâng hiến.


Cuộc sống đa đoan ngày nay dễ khiến con người nôn nóng, vội vàng, chạy đua với thời gian. Việc đạo đức có khi trở thành qua loa chiếu lệ. Mối quan hệ với tha nhân nhiều lúc trở nên hời hợt, nặng tính xã giao. Người ta ít có thời giờ để thăm viếng nhau. Biết dành thời gian thăm viếng với một ai đó đang cần đến mình, quả là một cử chỉ sống động của yêu thương và phục vụ. Đức Maria là mẫu gương tuyệt vời dạy cho chúng ta biết quan tâm và ở lại với nhau, ba tháng hay 15 phút tuỳ hoàn cảnh, miễn là chúng ta tận tình và không so đo tính toán. Chúa Giêsu cũng đã “ở lại” với hai môn đệ trên đường Em-mau, và đưa các ông trở lại Giê-ru-sa-lem với sứ vụ của mình.


Biết quan tâm đến người khác, tìm đến với tha nhân, chìa tay ra cho họ, ở lại với họ, nhất là những ai đang cần đến chúng ta, những ai cô thân cô thế, những ai không dám ngỏ lời, những người bị đời quên lãng, bỏ rơi… Đó là sứ điệp của ngày Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng.


Theo gương Đức Mẹ, các Tân Khấn Sinh lên đường phục vụ với tất cả yêu thương.


Cầu chúc các Tân Khấn Sinh luôn hạnh phúc trong đời dâng hiến.


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Giáo Hội với các phương tiện truyền thông


Hằng giờ khắp nơi trên thế giới, những làn sóng thông tin, qua các kênh đài phát thanh, đài truyền hình, internet website, emails, sách vở báo chí mọi thể loại, được sản xuất phát tỏa lan đi chằng chịt, liên tục.


Nhu cầu thông tin càng ngày nhiều, càng cần thiết, và góp phần đáng kể vào việc xây dựng, mở mang đời sống trong mọi lãnh vực.


Ngành truyền thông đã đang trở thành một nền công nghệ, giúp đem lại công ăn việc làm cho từng triệu người, và góp phần vào việc phát triển kỹ thuật khoa học, sản xuất kinh tế đáng kể trong xã hội.

 

Ðiều này mang đến tiến bộ giúp đời sống thăng tiến và đổi mới!


Nhưng trong rừng công nghệ thông tin đó, cũng có những thông tin thất thiệt, những thông tin bị uốn nắn sai sự thật, những thông tin xấu xa không đứng đắn, gây nguy hại cho đời sống con người.


“ Ngày hôm nay các phương tiện truyền thông đã làm cho hành tinh của chúng ta trở thành nhỏ hơn, bằng cách nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc và văn hoá khác nhau. “Sự sống chung” này đôi khi làm nảy sinh sự hiểu lầm và căng thẳng, tuy nhiên khả năng biết hầu như tức khắc nhu cầu của kẻ khác thách thức chúng ta chia sẻ hoàn cảnh và khó khăn của họ.” (Đức giáo Hoàng Benedictô XVI., Thông điệp Deus Caritas est, số 30.)


1. Phương tiện truyền thông trong nước Chúa


Việc sống đức tin, loan báo tin mừng của Chúa trên địa cầu như thế nào?


Khi đi rao giảng Tin Mừng nước Chúa cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã gợi ý nhắn nhủ làm sao sứ điệp giáo lý của Chúa:


- được tiếp tục quảng bá rộng rãi: “Ðiều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” ( Mt 10,27).


- đạt đến mọi góc biển chân trời, nơi nào có dấu vết chân con người sinh sống: Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy cho đến tận cùng trái đất.( Cv 1,8).


Ngày xưa Thánh Phanxicô Xavier từ bên Âu châu sang truyền giáo bên miền Viễn Ðông, chủ yếu bên Ấn Ðộ, đã ban Bí tích Rửa tội cho từng trăm nghìn vạn con người.


Các Thừa Sai từ Pháp, Ý, Tây ban nha, Bồ đào nha sang Việtnam rao truyền Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô hồi thế kỷ 17.-18. Các Vị Thừa Sai khi sang Việtnam đã chú trọng, nhất là các giáo sỹ lỗi lạc Dòng Tên, đến việc hội nhập văn hóa. Cha Alexandre De Rhodes cùng với các cha thừa sai Dòng Tên khác đã lập ra chữ Quốc ngữ, không chỉ cho việc truyền đạo viết dạy kinh bản, mà còn cho cả dân tộc Việtnam, cho nền văn hóa chúng ta nữa.

 

Xin thành kính cúi đầu với lòng vui mừng biết ơn, nhớ đến gia sản tinh thần văn hóa các ngài đã sáng tạo để lại cho chúng ta!


Vào năm cuối cùng của thế kỷ 20. đức cha Bùi Tuần đã khai triển trình bày dựa theo Lời Chúa Giêsu và hoàn cảnh đời sống con người cùng kinh nghiệm riêng của ngài, bản đồ địa chỉ truyền giáo như sau:


„ Hãy đi làm chứng cho Ðức Kitô đến tận cùng trái đất.


- Tận cùng trái đất là các ranh giới tận cùng về địa lý, các vùng sâu vùng xa, các vùng biên giới.


- Tận cùng trái đất là các ranh giới tận cùng về thời gian, cho đến tận cùng ngày, tận cùng tháng, tận cùng năm, tận cùng thế kỷ.


- Tận cùng trái đất là ranh giới tận cùng về thân phận con người, như các lớp người cùng khổ nhất, cô đơn nhất, bị nhục nhã nhất, bị thiệt thòi nhất.


- Tận cùng trái đất còn là ranh giới tận cùng của các lớp tâm sinh lý sâu thẳm làm nên bản thân mỗi người như tính tình, tiềm thức, vô thức…“ (+ Gm. Bùi Tuần, Làm chứng cho Ðức Kitô tới tận cùng trái đất. Bài giảng lễ phong chức hai tân Giám Mục Giuse Kiệt và Giuse Tiếu, Lx 29.06.1999).


2. Phương tiện truyền thông trong việc loan báo Tin mừng


Bằng phương tiện gì? Có được dùng những phương tiện thông tin thời đại không?


Thánh Công đồng Vatican đệ nhị, sau khi họp bàn suy nghĩ về trách vụ rao gỉang Tin mừng Chúa trao cho, đã khuyến khích dùng những phương tiện thông tin thời đại:


“ Giáo Hội công giáo do Chúa Kitô thành lập, có nhiệm vụ chuyển mang ơn cứu độ của Ngài cho con người. Và vì thế việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận của Giáo hội.


Ðẻ chu toàn nhiệm vụ đó, Giáo Hội được dùng những phương tiện truyền thông trong xã hội cho việc rao giảng Tin mừng ơn cứu độ.


Giáo Hội có quyền sử dụng và sở hữu những phương tiện truyền thông trong xã hội, cho việc giáo dục Kitô giáo và loan truyền việc ân đức cứu rỗi cho linh hồn con người…”(
Decretum de instrumentis communicationis socialis. Caput 1. Nr. 3.)


Ðức giáo hoàng Pio 11. năm 1931 đã cho thiết lập đài phát thanh Vatican cho việc công bố tin mừng của Chúa và những sinh hoạt Giáo hội cho toàn thế giới.


Ðài phát thanh Vatican truyền đi trên trên các làn song trung bình và ngắn khắp Âu châu; qua làn sóng ngắn tới các lục địa địa khác ngoài Âu châu. Ngoài ra đài phát thanh còn truyền thanh qua hệ thống Vệ tinh và qua đường internet nữa.


Radio Vatican đều đặn phát đi trên các làn sóng bằng 47 ngôn ngữ khác nhau trong đó có chương trình bằng tiếng Việtnam.


Bên Á châu có đài phát thanh công giáo Veritas hằng ngày truyền đi những tin tức rao giảng Tin mừng nước Chúa, cũng bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau cho miền lục địa châu Á.


Từ cung cách rao giảng bằng có sự mặt các nhà truyền giáo bây giờ chuyển sang giai đoạn dùng làn sóng đài phát thanh loan báo Lời Chúa trên khắp không gian, vượt mọi biên giới địa lý lãnh thổ


Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã nhận ra ảnh hưởng lợi hại sâu rộng của phương tiện truyền thông thời đại, nên ngài đã khuyến khích sử dụng kênh truyền hình, mở lập trang internet riêng cho những hoạt động và tin tức của Vatican.


Không chỉ bằng lời nói còn còn bằng cả hình ảnh sống động cụ thể có khung cảnh mầu sắc, Lời Chúa vượt qua mọi mốc trụ biên giới địa lý, không gian, thời gian, đi tận sâu vào từng hoàn cảnh cuộc sống, bắt gặp gợi lên những suy nghĩ tinh thần nơi con người.


Những sách vở, tạp chí, vâng cả những trang web site internet, hằng tuần, hằng tháng của Giáo hội trung ương Vatican, nơi các giáo phận địa phương, nơi các xứ đạo, cộng đoàn tu trì, những hội đoàn cơ sở Công giáo trên khắp thế giới; những bài gỉang Lời Chúa các ngày Chúa nhật và lễ trọng trong các thánh đường, góp phần vào việc làm chứng cho Ðức Kitô bằng lời, bằng chữ viết, bằng hình ảnh, trên khắp hoàn cầu.


Ở nước Ðức, hằng ngày vào mỗi buổi sáng, đều có những phút thiêng liêng với bài thánh ca và suy niệm ngắn năm phút về Tin mừng của Chúa, được phát tỏa trên làn sóng đài phát thanh công cộng, như lương thực tinh thần thiêng liêng cho đời sống hằng ngày.


Hằng tuần vào tối thứ bảy có bài giảng về Lời Chúa trên kênh truyền hình. Vào các ngày Chúa nhật và lễ mừng lớn đều có trực tiếp truyền hình thánh lễ Misa. Việc này giúp ích nhiều cho những người bệnh tật, sức khoẻ yếu kém không thể đi đến nhà thờ tham dự Thánh lễ được, có cơ hội thu nhận phần nào ý nghĩa đời sống cho tinh thần thiêng liêng. Và cho cả những người lâu ngày dửng dưng với việc niềm tin đạo giáo có cơ hội hâm nóng, làm quen lại với cách sống đức tin. Hay cũng là một gợi ý khơi lên ý thích về niềm tin đạo giáo nơi những người chưa biết đến Tin mừng của Chúa và cung cách sống đức tin của Giáo hội.


Có thể nói, Lời Chúa, những giáo huấn cùng hoạt động của Giáo hội, và những tin tức liên quan càng ngày càng được đăng tải loan truyền trực tiếp nhanh chóng rộng rãi trên những phương tiện truyền thông đại chúng.


Các kênh phát thanh, kênh truyền hình, các báo chí, các trang web site cần những thông tin sốt dẻo mới lạ, trong thời đại thông tin đa dạng ngày hôm nay. Và Gíao hội với sứ mạng loan báo làm chứng cho Tin Mừng của Chúa cũng cần những phương tiện đó, để mang tin mừng của Chúa nhanh chóng rộng rãi đến khắp mọi nơi.


3. Phương tiện truyền thông là một phương cách


Việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội đại chúng như thế, được khuyến khích và ngày càng lan tỏa rộng rãi về số lượng cũng như chất lượng. Nhưng cũng có thắc mắc được đặt ra: Có thật sự những phương tiện truyền thông đó góp phần hữu ích thiết thực cho việc loan báo Tin mừng làm chứng cho Chúa không? Phải chăng chạy theo phương tiện truyền thông thời đại là dần dần Tin mừng của Chúa có thể bị biến đổi, hiểu sai lạc, những họat động sống đức tin đạo giáo chính truyền bị tục hóa theo lối sống kiểu“đời” ?


Câu trả lời không đơn giản. Phương tiện truyền thông chỉ là một phương cách, một cái khung bao bọc một nội dung sức sống hàm chứa bên trong.


Cái khung không thể nào thay thế cho nội dung bên trong được. Có thể nhờ cái khung bên ngoài mà nội dung bên trong trở thành hấp dẫn. Nhưng cũng có nguy hiểm. Cái khung bên ngoài nhiều khi được chú ý làm nổi bật hấp dẫn, sẽ ấn át làm lu mờ nội dung bên trong!


**********

Phương tiện truyền thông do con người nghĩ làm ra, để phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. Nó cũng có hai mặt, như hai mặt của một huy chương. Nếu biết sử dụng đúng, ngay chính, nó sẽ là phương tiện tích cực giúp ích rất nhiều. Bằng không nó sẽ là con dao hai lưỡi quay trở làm đứt tay người sử dụng nó.


Ðây là một nghệ thuật đòi hỏi nhiều kiến thức, khi đi vào sử dụng những phương tiện kỹ thuật khoa học thời đại. Dùng phương tiện trần gian, để trình bày, mời gọi mọi người cùng hướng dẫn họ đến với Tin mừng của Chúa. Nhưng phải cảnh tỉnh trung thành với nội dung Tin Mừng của Chúa, với cung cách sống đức tin hợp với nền văn hóa xã hội, và nhất là tôn trọng sự thật cùng đạo đức tình người.


Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có suy tư thiết thực về điểm này:


“Ở giữa trần gian, nhưng không do trần gian.


Mà cho trần gian, với những phương tiện của trần gian.”.


Kỷ niệm Đại Hội Công giáo Việtnam nước Đức 2007

 

Lm. Nguyễn Ngọc Long

THÁNH THỂ - BỮA ĂN TỐI CỦA CHÚA

Tên gọi lâu đời nhất mà chúng ta có về Thánh thể là “bữa ăn tối của Chúa”. Chúng ta biết điều đó qua thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô của Phaolô : “Khi anh em họp nhau thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói người lại say” (1Cr 11,20-21). Những thái độ và hành động ở Côrintô làm cho bữa ăn của Chúa thành một việc tầm thường.

Cách Phaolô nói về “bữa ăn tối của Chúa” cho chúng ta suy đoán rằng mọi người trong cộng đoàn đều biết tên gọi Thánh thể và những đòi hỏi khi tham dự bữa tiệc này. Do đó tên gọi “bữa ăn tối của Chúa” đã được phổ biến trong một thời gian có lẽ từ thập niên 40 của thế kỷ đầu tiên, chỉ độ mười hay mười lăm năm sau cuộc khổ nạn và sống lại của Đức Giêsu. Dĩ nhiên, Thánh thể phải lâu đời hơn thế, muốn tìm hiểu thêm, cần phải đi ngược lên những bữa ăn trong cộng đoàn các Tông đồ khi biến cố khổ nạn và sống lại vẫn còn mới nguyên trong ký ức của họ.

LÚC BAN ĐẦU

Nguồn gốc của Thánh thể không tách rời cuộc khổ nạn và sống lại của Đức Giêsu. Thánh thể hàm ý rằng Đức Giêsu đã ban sự sống của Người cho các môn đệ, cho đám đông đến nghe Người giảng dạy, cho cả những người tìm bắt và đưa Người vào chỗ chết. Là con người, một con người cụ thể, Đức Giêsu trao ban sự sống mình cho mọi người, không loại trừ  ai.

Từ quan điểm ấy về Thánh thể, điều làm cho cuộc khổ nạn của Đức Giêsu có ý nghĩa, không chỉ là việc Người đã chịu đau khổ và chịu chết, nhưng là việc Người đã đau khổ vì người khác, và trao ban mạng sống mình để cho người khác được sống. Thánh thể hàm ý Đức Giêsu đã đau khổ và chết với cùng một Thần Khí đã thúc đẩy Người trong tác vụ suốt cả cuộc đời Người. Đức Giêsu đã chết như Người đã sống. Khi hiến ban mạng sống mình, Đức Giêsu làm tuôn đổ tình yêu Thiên Chúa cho toàn nhân loại. Như Gioan đã viết, Đức Giêsu ban mạng sống Người “để tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).

Từ lúc ban đầu, Thánh thể cũng hàm ý Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu trỗi dậy trong đời sống mới, và Người cũng đã hiện ra cho các môn đệ ngay sau khi sống lại, trong khi họ còn bị xúc động mạnh vì cái chết của Người nhưng vẫn còn tụ họp lại, chưa phân tán mỗi người mỗi ngả. Cũng như trong cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, việc Người sống lại là một biến cố cứu độ ban sự sống, thì việc Người hiện ra như Chúa sống lại là một biến cố làm biến đổi. 

Thánh thể hàm ý Đức Giêsu trao ban mạng sống Người trong khổ nạn - sống lại. Những biến cố ban đầu này trùng khớp với kinh nghiệm Người tiếp tục dâng mạng sống Người như Chúa sống lại. Thánh thể không tách rời với cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, và cũng không tách rời với những lần hiện ra đầu tiên cùng các môn đệ. Chính vì Đức Kitô đã đau khổ, chết và sống lại mà Đức Giêsu hiện diện trong Thánh thể. Đó cũng là Chúa sống lại.

OPHTHE, “NGƯỜI TỎ MÌNH RA”

Từ ngữ lâu đời nhất mà chúng ta có về việc Đức Giêsu hiện ra cho các môn đệ sau khi sống lại là ophthe, một hình thức thụ động bất định của động từ Hy Lạp, “thấy” (horao). Ophthe thường được dịch là “Người đã hiện ra”, nhưng dịch cách chính xác hơn tuy hơi khó nghe là “Người tỏ mình ra”. Lối dịch này có cái hay là trong cách diễn tả lòng vòng “Người tỏ mình ra” đã truyền đạt được hành động Đức Kitô xuất hiện, rồi hành động “nhận ra” của những ai “trông thấy” Người, và tác động của việc hiện ra làm biến đổi các môn đệ. Ở đây việc “tỏ mình ra” còn hơn cả việc “hiện ra” được thấy bằng mắt.

Các Kitô hữu đã sớm chấp nhận từ ngữ ấy để nói về việc Đức Kitô hiện ra cho các môn đệ. Ophthe là từ ngữ được dùng theo nghĩa mà các Kitô hữu cổ xưa nhất đã có thể tạo ra : “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh thánh, rồi Người được mai táng, và ngày thứ ba Người đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh thánh ; Người đã hiện ra (ophthe) với ông Kêpha rồi với nhóm Mười Hai” (1Cr 15,3b-5).

Thánh thể bắt đầu ở Giêrusalem trong một lần Đức Giêsu hiện ra, không lâu sau khi Người sống lại, khi các môn đệ họp lại để dùng bữa. Như Luca đã cho thấy, cộng đoàn các môn đệ vẫn sống chung và chuyên tâm cầu nguyện (Cv 1,13-14) sau cái chết thập giá của Đức Giêsu (Lc 24,33). Đức Giêsu đã dạy họ phải cầu nguyện như thế nào, và họ đã có gương sáng về việc cầu nguyện riêng của Đức Giêsu (x. Lc 11,2b-4 ; Mt 6,9-13). Khó tưởng tượng được điều gì khác ngoài việc cầu nguyện, có thể giữ họ sống chung với nhau.

NHỮNG LẦN HIỆN RA ĐẦU TIÊN CỦA CHÚA PHỤC SINH

Lần hiện ra đầu tiên là với ông Simon. Biến cố đó được cộng đoàn thuật lại khi họ đón chào hai môn đệ từ Emmaus trở về : “Chúa sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon !” (Lc 24,34). Lần hiện ra đầu tiên này có trong niềm tin mà Phaolô kể lại cho các tín hữu Côrintô : “Người đã hiện ra (ophthe) cho Kêpha và nhóm Mười Hai” (1Cr 15,5), cho các Tông đồ thủ lãnh là những nền tảng của Giáo hội.

Tân ước cũng nói về một số lần hiện ra trong bối cảnh một bữa ăn với các môn đệ và toàn thể cộng đoàn (Lc 24,13-35, 36-49 ; Ga 21,1-14). Sách Công vụ (Cv 1,4) cũng nói đến những lần hiện ra của Đức Giêsu khi “cùng ăn chung” (sunalizomai) với các Tông đồ (động từ sunalizomai, nghĩa đen là có muối (alas) chung (sun), nghĩa là “cùng đến để ăn”). Chính trong những lần Đức Giêsu hiện ra như thế với các môn đệ, và họ nhận ra Người ở giữa họ, mà Thánh thể đã bắt đầu.

Những khởi đầu của Thánh thể vừa mang tính đơn sơ vừa làm kinh hoàng. Thánh thể có tính cách đơn sơ vì cộng đoàn các môn đệ là những người bình thường, nam cũng như nữ, họp nhau lại để dùng một bữa ăn bình thường. Thánh thể cũng làm kinh hoàng vì sự hiện ra và hiện diện ngôi vị của Đức Kitô đã làm biến đổi cộng đoàn các môn đệ thành một dân mới để cùng chia sẻ sự sống lại của Đức Kitô, đồng thời biến đổi bữa ăn của họ thành điều mà sau cùng chúng ta gọi là “bữa ăn của Chúa”. Những bữa ăn Thánh thể sớm nhất đó chắc chắn là để tưởng nhớ Đức Giêsu, nhưng không có những hình thức hay công thức được chuẩn hóa mà sau này không thể tách khỏi “bữa ăn của Chúa” trong Giáo hội.

Lúc ban đầu các bữa ăn Thánh thể không có gì là vui tươi lễ lạc. Vì vẫn còn liên kết với biến cố khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ đã không dự kiến việc Đức Giêsu xuất hiện trong bữa ăn của họ. Thực đơn cho những bữa ăn đầu tiên đó sau cái chết của Đức Kitô chắn hẳn phải rất đơn giản, thay đổi tùy theo lương thực có thể kiếm dễ dàng nhất. Tuy nhiên một món ăn luôn luôn phải có trong mỗi bữa ăn là bánh, đó là món ăn căn bản không chỉ đối với người Do Thái ở Palestine mà còn đối với toàn bộ vùng Địa Trung Hải. Bánh là món ăn căn bản đến nỗi người ta thường nói việc dùng bữa là “ăn bánh”. Bánh là yếu tố chính để nuôi dưỡng. Bánh được nhúng vào nước chấm (Mc 14,20) và dùng với thức ăn khác như cá (Ga 6,9), ba ổ bánh mỏng đủ cho người lớn trong một bữa ăn no (Lc 11,5-6).

Điều phân biệt bữa ăn Thánh thể tiên khởi là việc chia sẻ của các môn đệ, những người được Đức Giêsu kêu gọi lại và đào tạo trong suốt thời gian Người thi hành sứ vụ của mình. Các môn đệ cũng đã có chung một lịch sử với nhau và với Đức Giêsu, và lịch sử này phải ảnh hưởng cách họ tiếp tục dùng bữa chung với nhau. Sách Công vụ mô tả cộng đoàn ấy gồm có nhóm Mười Hai, “cùng với một vài phụ nữ, Đức Maria Mẹ của Chúa Giêsu và các anh em Người” (Cv 1,14). Trong số các phụ nữ có Maria Madalena và những phụ nữ khác đã cùng đi với bà ra mộ (Lc 24,10).

Những môn đệ này đã chia sẻ chung một số phận. Việc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh đem họ lại gần với nhau hơn bao giờ hết, mời gọi họ nhớ lại những ngày tháng sống với Đức Giêsu Nazareth, và nhìn ngắm đời sống mà Đức Giêsu đã sống với họ dưới mộât ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Một cách nào đó họ vẫn là cộng đoàn mà Đức Giêsu đã kêu gọi, đào tạo và liên kết với sứ vụ của Người. Nhưng đồng thời họ cũng là một cộng đoàn mới được biến đổi nhờ biến cố khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô.

Những lần hiện ra của Đức Giêsu rất mầu nhiệm, vậy làm thế nào để bắt đầu mô tả sự hiện ra của Thiên Chúa được ? Tuy nhiên đối với Chúa phục sinh, các Kitô hữu tiên khởi đã có một hình ảnh hết sức tinh tế để dựa vào đó mà mô tả. Đó là hình ảnh Đức Giêsu lịch sử suốt những năm tháng Người sống với họ.

Đức Giêsu là bí tích con người của Thiên Chúa trong lịch sử.  Đối với Giáo hội tiên khởi, Đức Giêsu cũng có thể là bí tích lịch sử của Chúa phục sinh ở giữa họ. Với việc cầu nguyện của Chúa phục sinh, họ đã có hình ảnh Đức Giêsu cầu nguyện (x. Lc 11,1). Với sự hiện diện của Chúa phục sinh với họ trong bữa ăn, họ đã có hình ảnh của Chúa Giêsu tại bàn ăn với họ trong suốt thời gian tác vụ của Người (Tin mừng Luca có mười câu chuyện Đức Giêsu dùng bữa với các môn đệ và những người khác : 5,27-39 ; 7,36-50 ; 9,10-17 ; 10,38-42 ; 11,37-54 ; 14,1-24 ; 19,1-10 ; 22,14-38 ; 24,13-35, 36-53). Trong tất cả những bữa ăn Đức Giêsu đều chia sẻ với họ, đáng nhớ nhất là bữa ăn mới đây, bữa ăn mà Đức Giêsu chia sẻ với họ trong đêm Người bị nộp. Bữa Tiệc ly đã cho họ những hình ảnh cần thiết để diễn tả những ngụ ý sâu xa nhất trong những bữa ăn của họ với Đức Kitô khi Người sống lại.

Các Kitô hữu tiên khởi nói về những bữa ăn sau phục sinh với Đức Giêsu thường quy chiếu về Bữa Tiệc ly. Nếu không có sự phân ly giữa phục sinh và khổ nạn thì cũng không có phân ly giữa bữa ăn của Chúa với Bữa Tiệc ly. Họ đã coi bữa ăn của Chúa với Bữa Tiệc ly là một. Không ngạc nhiên khi các Kitô hữu chẳng bao lâu đã trình bày bữa ăn của Chúa như sự thể hiện trong hiện tại Bữa Tiệc ly, như chúng ta đã thấy trong truyền thống Phaolô truyền lại cho các tín hữu Côrintô : “Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, tạ ơn, rồi bẻ ra và nói : ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy hiến tế vì anh em ; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,23-25). Đây là cách cử hành việc tưởng nhớ khổ nạn và sống lại của Đức Giêsu, trong khi liên kết bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu lịch sử với bữa ăn đầu tiên cũa Đức Giêsu phục sinh. Và đây là cách câu chuyện đó được kể lại trong các sách Tin mừng.

BÁNH CỦA CHÚNG TA, BỮA ĂN CỦA CHÚNG TA

Vì bánh là món rất căn bản trong một bữa ăn, và từ “bánh” thường dùng chỉ toàn bộ bữa ăn, cho nên ăn bánh với nhau có nghĩa là cùng dùng bữa chung với nhau. Một bữa ăn không dùng “một mình một cỗ”, nhưng là với những người khác, như một gia đình hay cộng đoàn. Từ “bánh” rõ ràng gợi lên hình ảnh một gia đình hay một cộng đoàn, người ta quy tụ lại để chia sẻ bữa ăn hơn là để chia sẻ lương thực. Nếu thế thì chắc hẳn cách thông thường và đơn giản nhất mà các Kitô hữu nói đến việc dùng chung bữa tiệc Thánh thể là nói về “bánh của chúng tôi” tức là “bữa ăn của chúng tôi”.

Cách diễn tả ấy cho thấy rằng có một cái gì đặc biệt về “bánh” hay “bữa ăn” của họ, một cái gì nêu rõ đặc tính và phân biệt nó với các bữa ăn hay bánh mà người khác dùng, một cái gì đó làm nó khác với những bữa ăn mà chính họ ăn bên ngoài cộng đoàn. Chỉ những người tham dự bữa ăn của họ mới có thể biết được điều đặc biệt đó là cái gì, và hãy để một mình họ biết giá trị của bữa ăn ấy. Đó không phải là một điều có thể mô tả dễ dàng cho những người không bao giờ có kinh nghiệm về bữa ăn đó.

Trên hết, điều phân biệt “bánh của chúng tôi” là sự hiện diện và kinh nghiệm về Chúa phục sinh ở giữa họ, đem lại cho những người đang sống trong đau khổ ưu phiền được tràn trề niềm vui mà họ chưa từng được biết. Luca cho chúng ta một ý niệm về niềm vui ấy qua những lời của hai môn đệ Emmaus khi họ nhận ra Chúa phục sinh : “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32). Cũng có cảm giác của những người tham dự khi thuộc về một cộng đoàn có một lịch sử chung trong sứ vụ của Đức Giêsu, trong những biến cố khổ nạn sống lại và trong những tường thuật tiên khởi về việc Chúa hiện ra với Simon. Mỗi bữa ăn của họ với Chúa phục sinh viết thêm vào lịch sử chung ấy.

Khi những thành viên mới trở thành chi thể của cộng đoàn, những thành viên cũ chia sẻ câu chuyện của cộng đoàn với họ, làm cho họ trở thành một phần của “chúng tôi”  trong “bánh của chúng tôi”. Những người đã cảm nghiệm “bánh của chúng tôi” biết bánh ấy đặc biệt như thế nào và biết thành ngữ ấy có nghĩa gì. Những người không phải là chi thể của cộng đoàn và không có cảm nghiệm “bánh của chúng tôi” là gì thì không có một ý niệm gì về việc ấy. Không một sự phỏng đoán nào có thể giúp họ được. Vì đối với những người ngoài cuộc sự liên kết giữa “bánh của chúng tôi” với việc “tỏ mình ra” (ophthe) mà Thiên Chúa thể hiện trong Cựu ước là một điều vô lý, không thể hiểu được.

(Phỏng ý từ “Our Daily Bread” của Lm. Eugene La Verdiere, SSS)

( Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS chuyển ngữ)

Phục vụ cho sự sống đời đời

Bài nói chuyện với các bạn trẻ tìm hiểu ơn gọi tại Dòng Con Đức Me Nam Vang – Phú Cường (3.6.07)

1. Khát vọng thuộc về bản năng của tuổi trẻ. Khát vọng của giới trẻ thường là khát vọng kiếm tiền, khát vọng thành công, khát vọng danh lợi, khát vọng hạnh phúc…. Thế nhưng những khát vọng đó hình như không làm thỏa mãn cơn khát của các bạn trẻ và hiện tượng các bạn trẻ đua nhau tự tử đã trở nên phổ biến trong thế giới hiện đại của thế kỷ 21 hôm nay.

Theo con số liệu của Tổng cục Thống kê Hàn quốc cho biết, năm 2005 cứ 100.000 người trung bình có 24,7 vụ tự tử. Còn ở Nhật Bản là 24,2, ở Mỹ là 10,2.Theo các chuyên gia nguyên nhân dẫn tới việc các bạn trẻ tử tự chủ yếu là do căng thẳng nảy sinh từ cuộc sống hiện đại thí dụ học hành quá căng thẳng, phải cật lực làm việc, học hành may ra mới thỏa mãn được khát vọng thành công. Tình yêu hôn nhân cũng trở nên mỏng dòn dễ đổ vỡ vì những tham vọng của cuộc sống. Và có một lúc nào đó các bạn trẻ cảm thấy cuộc đời trở nên vô vi, phi lý, như cô diễn viên 27 tuổi Jeong Da Bin, người Hàn Quốc, đã viết trên trang web của cô những lời trước khi tìm đến cái chết vào ngày 10/02/07: "Tôi phát điên lên vì giận dữ mà chẳng có lý do gì. Rồi, như thể sau một tia sét, tất cả trở nên yên tĩnh. Rồi Thượng đế đến với tôi. Thượng đế nói tôi sẽ ổn thôi, mọi sự sẽ ổn thôi".

Thế nhưng không phải tất cả các bạn trẻ đều chỉ dừng lại ở khát vọng về những thực tại thế trần nầy. Qủa thật còn có một khát vọng khác cao quí hơn mà một số cá cbạn trẻ tìm đến. Khát vọng: “sống đời đời”, đó chính là khát vọng mà người thanh niên đã bày với Chúa Giêsu mà Matthêu tường thuật lại trong đoạn Tin mừng 19, 16 -22.

Qủa thật, trong thế giới hôm nay vẫn còn vô số bạn trẻ đang đặt câu hỏi: Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời, hơn là vấn đề mà một số bạn trẻ đang quan tâm: tôi phải làm gì để có nhiều tiền, có việc làm lương cao, hay là: tôi phải làm gì để trở thành sao: hoa hậu, ca nhạc, bóng đá….? Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI. đã nhìn thấy điều đó khi ngài gặp gỡ các bạn trẻ Ba tây vào ngày 12/5/07 nhân chuyến công du của ngài tới nước đó. Ngài nói: “Chúng tôi nghe nói về những sợ hãi của giới trẻ ngày nay. Những sợ hãi ấy chứng tỏ sự thiếu thốn hết sức lớn lao về hy vọng: sợ chết, giữa lúc cuộc sống đang tươi nở và tìm cách thể hiện đời mình; sợ thất bại, vì không tìm được ý nghĩa của cuộc sống; sợ bị bỏ rơi đằng sau, đứng trước sự mau lẹ kinh khủng của các biến cố và truyền thông. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ cao về số người chết chóc nơi người trẻ, sự đe dọa của bạo lực, sự lan tràn đáng tiếc của ma túy đang làm rúng động tận gốc rễ giới trẻ ngày nay. Vì thế, người ta nói về sự băng hoại của giới trẻ. Nhưng khi nhìn các con hiện diện nơi đây đang chiếu tỏa niềm vui và phấn khởi, cha có cái nhìn giống như cái nhìn của Chúa Giêsu, cái nhìn yêu thương và tín thác, và cha đoan chắc rằng các con đã tìm ra chính lộ.”.

2. Tôi nhìn thấy các bạn hiện diện nơi đây như đang thể hiện một nỗi khát khao của người thanh niện trong Tin Mừng Matthêu. Chắc chắn các bạn về đây không tìm một giải pháp cho cuộc sống tương lai trần thế: làm sao để có một cuộc sống an nhàn, giàu sang, nổi danh, để tìm một câu giải đáp cho vấn nạn : Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?

Đó chính là nỗi khat khao chính đáng, và khi đặt ra câu hỏi đó chúng ta đã nhìn thẳng vào tận thâm sâu của cuộc đời nầy: đâu là sự sống thật? và đâu là hạnh phúc thật? Để được sống hạnh phúc đời đời, câu trả lời trước tiên cho các bạn hôm nay cũng không khác gì câu trả lời của Chúa Giêsu đã nói cách đây hơn 2000 năm: “hãy giữ các giới răn”, những giới răn đã được các bạn thuộc nằm lòng khi học giáo lý xưng tội lần đầu, đó là 10 điều răn của Chúa.

Và có lẽ cũng không khác gì tâm trạng của người thanh niên: chúng ta đã tuân giữ 10 giới răn Chúa một cách nghiêm túc không sơ sẩy, thế nhưng chúng ta vẫn còn cảm thầy thiếu một cái gì, vẫn cảm thấy băn khoăn về cuộc sống. Đúng vậy, nếu chỉ quan tâm chăm chú giữ 10 giới răn mà thôi, thì quả thật, đó chưa đủ để chúng con tìm được một câu trả lời cho vấn nạn mà chúng ta đang đặt ra. Thật vậy, việc tuân giữ 10 giới răn chỉ là hành vi mang tính “đặc thù qui ngã” của một tiến trình bước vào sự sống đời đời. Thế nhưng Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống đời, lại là Thiên Chúa Yêu thương. Và như Đức Bênêđictô XVI. đã diễn tả tình yêu là “một cuộc hành trình, một cuộc xuất hành ra khỏi cái tôi đóng kín hướng vào bên trong để vươn tới sự tự do qua việc cho đi chính mình” (Deus caritas est số 6). Bởi đó để được sống đời đời ngoài việc tuân giữ “10 giới răn”, chúng ta còn phải biến 10 giới răn đó trở thành khí lực giúp chúng ta hành động để được sống đời đời. Sự sống đời đời không là một trạng thái thụ động, nhưng là một hành vi trao ban, như Thiên Chúa là Đấng hằng sống trong biến cố tình yêu của Ba ngôi.

Giới răn tự nó quan trọng bởi nó dẫn vào cõi sống. “Đó là những dấu chỉ cao trọng dẫn chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Ai tuân giữ các giới răn, người ấy đang trên đường đến với Chúa. Tuy nhiên, chỉ hiểu biết các giới răn thì không đủ. Chứng tá quan trọng hơn tri thức; hay đúng hơn, tri thức cần phải được áp dụng. Các giới răn không được áp đặt cho chúng ta từ bên ngoài; chúng không làm giảm tự do của chúng ta. Trái lại: chúng là những động lực nội tâm mạnh mẽ hướng dẫn chúng ta hành động theo một cách thức nào đó. Từ cốt lõi của các giới răn, chúng ta tìm thấy cả ân sủng và tự nhiên, chúng không để chúng ta ù lì bất động. Chúng ta phải bước tới. Chúng ta bị thôi thúc phải làm một điều gì đó để kiện toàn khả năng của chúng ta. Thật vậy, tìm sự thành toàn qua hành động chính là làm cho mình trở nên thực hữu. Theo phạm vi rộng, ngay từ thời gian tuổi trẻ, chúng ta sẽ trở thành điều chúng ta muốn trở thành. Cũng có thể nói, chúng ta là công trình của chính chúng ta kiến tạo” (Đức Bênêđictô XVI., bài diễn văn nói với giới trẻ tại Ba Tây).

3. Phải hành động như thế nào đây? Vẫn là câu trả lời của Chúa Giêsu: “hãy bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,… rồi hãy đến theo Ta”. Để được sống đời đời không chỉ là “giữ”, nhưng còn là một dấn thân quyết liệt: “bán”, “đem cho” và “đi theo”, đó chính là những yếu tố sinh động của sự sống đích thật theo nghĩa Tin Mừng.

“Bán tài sản của anh”, ở đây không là một việc mua bán theo nghĩa thương mại bình thường quai những thực tại trần thế. Tài sản mà Chúa Giêsu nói tới đây chính là sức sống, tài năng của sức trẻ mà chàng thanh niên, hay nói cách khác là tuổi trẻ của các bạn đang sở hữu. Với tài năng, và sức trẻ chúng ta có nhiều dự tính, nhiều sáng kiến, nhiều ước vọng, nhiều hoài bão. Và một cách nào đó các bạn tự hào về “tài sản” mà các bạn đang sở hữu, như nhà văn Vương Trí Nhàn nhận định : “Tôi mong là tôi sai, nhưng tôi có cảm nhận các bạn trẻ hiện nay hơi kiêu. Các bạn hay tự hào rằng mình là thế hệ 8X, 9X thì có cái gì đó mới mẻ hơn thế hệ trước”.

Bán cái “tài sản” như Chúa yêu cầu không gì khác hơn là biến những sáng kiến, những ước vọng và hoài bão nhằm phục vụ tha nhân hơn là để thỏa mãn nhu cầu tự ái của tuổi trẻ. Hơn nữa là tuổi trẻ với niềm tin kitô giáo, chúng ta được mời gọi ra khỏi cái tôi ích kỷ để biết học hỏi, lắng nghe giáo huấn của Tin Mừng để chọn cho mình một hướng đi đúng đắn hầu đạt tới sự sống đời đời. Đức Bênêđictô VI. đã nói: “tuổi trẻ hiện ra như một hình thái của sự giàu có bởi vì nó dẫn đến sự khám phá đời sống như một hồng ân và như một bổn phận. Người thanh niên trong Tin Mừng hiểu rằng tuổi trẻ của anh ta chính là một kho tàng. Anh ta đến với Chúa Giêsu, một lương sư để tìm một định hướng. Tuy nhiên, vào lúc phải quyết dịnh dứt khoát, anh ta đã thiếu can đảm để đánh cuộc mọi sự nơi Chúa Giêsu Kitô. Bởi đó, anh sụ mặt và bỏ đi. Đây là điều sẽ xảy ra khi quyết định của chúng ta chập chờn do dự, yếu nhược và thủ lợi. Anh ta hiểu rằng điều anh ta thiếu chính là lòng quảng đại, và điều này không cho phép anh ta thực hiện khả năng trọn vẹn của mình. Anh ta thu mình vào của cải của anh, biến nó thành lòng ích kỷ.” (Đức Bênêđictô XVI., bài diễn văn nói với giới trẻ tại Ba Tây).

“Đem cho” là hành vi không thể thiếu trên con đường kiếm tìm sự sống đời đời. Cái bể khổ của nhân loại mà Đức Phật nói, chính là lòng tham, là “cái dục” nơi con người, để giải thoát cái khổ theo Đức Phật là “diệt dục”, nói cách khác là phải loại bỏ tham sân si nơi chính mình. Hành vi “loại bỏ”được hiểu nơi Tin Mừng là “đem cho”. “Đem cho” không đơn thuần là hành vi bố thí, nhưng là động thái của tình yêu đích thật, một tình yêu hiến tặng. Tình yêu được diễn tả cách sống động và tuyệt hảo nơi Chúa Giêsu Kitô. Qua Người, Thiên Chúa Cha đã mặc khải cho con người nhận biết về tình yêu của Người, một tình yêu trao ban trọn vẹn. Thật vậy qua cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá “là tột đỉnh của việc Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính Ngài, trong đó, Ngài trao ban chính mình để nâng con người dậy và cứu rỗi con người. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất” (Đức Bênêđictô XVI., Deus caritas est, số 12).

Tình yêu không chiếm hữu cho riêng mình, nhưng luôn hướng tới tha nhân để chia sẻ. Cuộc sống của người kitô hữu luôn bắt nguồn trong sự hiệp thông với Chúa Kitô. Thế nhưng “Tôi không thể giữ Chúa Kitô chỉ cho riêng mình; tôi chỉ có thể thuộc về Ngài trong sự hiệp thông với những ai đã và sẽ trở thành của Ngài. Sự hiệp thông đưa tôi ra khỏi chính mình để hướng về Ngài, và vì thế cũng hướng về sự hiệp nhất với tất cả các Kitô hữu” (Đức Bênêđictô XVI., Deus caritas est, số 13). Sự sống đời đời được đâm rể trong tình yêu tha nhân, bởi vi sự sống sẽ không xuất hiện nếu không có tình yêu. Sự sống đời đời cũng chỉ có thể hình thành từ một tình yêu đích thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Với tình yêu của Thiên Chúa chúng ta gặp gỡ tha nhân trong ánh mắt nhìn của Đức Kitô, để từ đó chúng ta yêu cả những người không thích, thậm chí ngay cả không biết, chúng ta nhìn tha nhân không chỉ với đôi mắt và cảm xúc của mình nhưng còn từ quan điểm của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta còn có thể trao cho tha nhân nhiều hơn những nhu cầu bề ngoài của họ (X. Đức Bênêđictô XVI., Deus caritas est, số 18).

“Đi theo” là hành trình cuối cùng và là chóp đỉnh của con đường tìm đến sự sống đời đời. Sự sống thật chỉ bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa, sự sống đó được trao ban cho nhân loại qua Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định: ta là đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta theo Chúa không như là theo một thần tượng. Giới trẻ thường xây dựng cho mình một thần tượng để theo, thế nhưng không có một thần tượng nào tồn tại lâu bền trong lòng các bạn trẻ, bởi thần tượng cũng chỉ là biểu lộ sự cuồng nhiệt, đam mê nhất thời. Cho dầu có cuồng nhiệt như cô gái Dương Lệ Quyên, vì qúa ái mộ Lưu Đức Hoa mà người cha Dương Cần Ký dùng cách tử tự để con gái của mình gặp được thần tượng, thần tượng cũng bị kéo sụp. Nếu chúng ta cất bước theo Chúa Giêsu như một thần tượng, chắc chắn có một ngày chúng ta sẽ hạ bệ thần tượng đó. Câu chuyện đó đã xảy ra ngay trong thời Chúa còn tại thế. Ngay từ buổi đầu rao giảng, đã có nhiều người theo Chúa, thế nhưng con số càng ngày càng rụng dần, nhất là khi Chúa nói về Bánh Sự Sống, một số đông môn đệ đã bỏ đi, chỉ còn nhóm 12, bởi vì họ không đi theo Chúa như theo một thần tượng, nhưng là theo một vị Thầy dạy sự khôn ngoan, một Đấng ban sự sống: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có lời hằng sống”.

Do đó “đi theo” là để trở nên giống Chúa, mang tình thương đến cho mọi người, loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, là tiếp tục công việc cứu độ của Chúa qua việc phục vụ tha nhân bằng tình yêu trao ban đích thật. Đoạn cuối của con đường đi theo là Thập Giá trên đỉnh đồi Calvê. Vâng, để được sống đời đời không có còn đường nào khác ngoài con đường Chúa đã đi: con đường tự hiến trên Thập giá vì yêu.

5 Các bạn trẻ cùng trang lứa với các bạn, họ cũng có những khao khát, nhưng có thể khao khát của họ khác khao khát của các bạn. Bởi đó Chúa mời gọi chúng ta hãy giúp các bạn trẻ hôm nay nhận ra đâu là nguồn kháo khát đích thật. Một sự dấn thân chọn lựa đời sống tận hiến là cách thế hữu hiệu để thực hiện mục đích nầy. Như Đức Bênêđcitô XVI. đã nhắn nhủ: “Các con hãy chuyên cần trong việc tìm kiếm thiện ích cho tha nhân, trung thành với những điều đã cam kết. Các con đừng do dự vui mừng từ khước một vài thú tiêu khiển, hãy vui lòng chấp nhận những hy sinh cần thiết, hãy làm chứng về tình yêu trung thành của các con đối với Chúa Giêsu bằng cách loan báo Tin Mừng của Ngài đặc biệt nơi các bạn đồng lứa. Các con đừng do dự trong việc quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa…. các con hãy sẵn sàng thưa ‘xin vâng’ nếu Chúa gọi các con theo Ngài … trong đời thánh hiến. Tấm gương của các con sẽ là một khích lệ cho nhiều người khác đồng lứa tuổi với các con, họ đang tìm kiếm hạnh phúc đích thực. (Đức Bênêđictô XVI. Sứ Điệp gởi các bạn trẻ nhân ngày Quốc tế Giới Trẻ lần thứ 22).

Vì vậy tôi mời gọi các bạn, những bạn trẻ hiện diện tại buổi gặp gỡ nầy là: các bạn hãy hiến tặng gia tài tuổi trẻ của các bạn cho những người nghèo hôm nay, họ những người đang đói khát chân lý, họ những người bị bỏ rơi vì bệnh tật, nghèo hèn, họ những em bé lang thang không cha không mẹ, những đứa trẻ thiếu thốn tình thương nhân loại, họ những bạn trẻ đang lao mình vào những cuộc vui chơi thâu đêm vì thất vọng, vì chán chường…. Họ là gia tài của Giáo hội, Giáo hội đang cần tấm lòng quảng đại của các bạn, hãy trao cho họ nhiệt tình, và hoài bão của các bạn. “Các con là người trẻ trong giáo Hội và trong nhân loại hôm nay. Giáo Hội cần các con như những người trẻ, để tỏ cho thế giới thấy dung mạo của Chúa Giêsu Kitô, hiện hình trong cộng đồng Kitô. Không có khuôn mặt tươi trẻ này, Giáo Hội sẽ bị biến dạng.” ((Đức Bênêđictô XVI., bài diễn văn nói với giới trẻ tại Ba Tây). Sự hiến dâng của các bạn, dù chỉ như một ngọn nến lung linh chưa đủ thắp sáng cả bầu trời đang chìm ngập trong bóng đêm của “nến văn minh sự chết”, nhưng nếu ngọn nến đó cháy với trọn con tim của nhiệt huyết tuổi trẻ, thì ánh sáng đó vẫn cần thiết cho công việc phục vụ Tin Mừng. Một chim én không làm nên Mùa Xuân, nhưng nhiều chinm én bay lượn trên bầu trời sẽ làm bừng lên sự rao rực của Mùa xuân. Chúa đang chờ sự quảng đại hiến dâng của các bạn.

Lm Antôn Hà văn Minh

Giáo phận Phú Cường

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

Người tín hữu chu toàn luật buộc tham dự Thánh lễ Chúa nhật như thế nào ?

( Luật buộc người tín hữu tham dự thánh lễ Chúa nhật và các ngày lễ buộc được minh nhiên nhắc đến trong Bộ Giáo luật 1983 tại điều 1247 và trong Sách Giáo lý Công giáo 1992 tại số 2042. Luật tham dự này lại được Bộ Giáo luật định nghĩa như sau : “Ai tham dự thánh lễ, cử hành theo lễ nghi Công giáo bất cứ ở đâu, hoặc vào chính ngày lễ hay vào chiều ngày trước lễ, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ” (điều 1248). Dựa vào điều luật này, một số người cho rằng tham dự bất cứ thánh lễ nào vào chiều ngày Chúa nhật hay chiều ngày trước lễ đều có thể thay thế thánh lễ Chúa nhật hay lễ buộc đó, cho dù thánh lễ mà họ tham dự không được cử hành cho ngày Chúa nhật hay lễ buộc !

Để giải thích điều luật này chúng ta cần đọc kỹ lại Tông thư “Dies Domini - Ngày của Chúa” do Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 31 tháng 5 năm 1998, khi ngài đề cập đến tầm quan trọng của ngày Chúa nhật. Trong Tông thư, Đức Thánh cha tái khẳng định : “Mọi tín hữu buộc phải tham dự thánh lễ Chúa nhật và các lễ buộc” (số 47), và ngài xác định thêm : “Vì đây là một bổn phận của mọi tín hữu, nên các mục tử phải chăm lo cho họ được tham dự thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc đầy đủ. Chính để đáp ứng đòi hỏi này, mà Hội thánh cho phép các linh mục được cử hành hơn một lễ nữa vào buổi chiều ngày hôm trước. Vì vậy, theo quan điểm phụng vụ, thánh lễ chiều Chúa nhật và lễ buộc phải có đầy đủ các yếu tố của thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc” (số 48).

Nói cách khác, để chu toàn luật buộc tham dự thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc, nếu người tín hữu tham dự thánh lễ chiều hôm trước, thì họ phải tham dự thánh lễ trong đó có các yếu tố của thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc chứ không phải bất cứ một thánh lễ nào.

Một vấn nạn khác được đặt ra : Vậy nếu chiều hôm trước hay chính ngày Chúa nhật và lễ buộc, người tín hữu tham dự thánh lễ an táng hoặc thánh lễ cưới thì họ đã chu toàn luật buộc tham dự thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc chưa ? Câu trả lời được tìm thấy trong “Quy chế tổng quát sách lễ Rôma” và trong “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch” [1]. Theo các quy chế này, khi thánh lễ an táng và lễ cưới được cử hành vào ngày Chúa nhật hay lễ buộc thì tuỳ theo mùa phụng vụ mà người ta có thể cử hành thánh lễ an táng hay lễ cưới đó.

1. Đối với thánh lễ an táng, thánh lễ này bị cấm vào các lễ buộc, các Chúa nhật thuộc mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh [1]. Khi cử hành an táng vào những ngày kể trên linh mục không được dùng bản văn phụng vụ của thánh lễ an táng (bản văn này nằm trong Sách lễ Rôma ở phần cầu hồn) mà phải dùng bản văn phụng vụ của các lễ buộc, các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh. Trong trường hợp này những ai tham dự thánh lễ đưa tiễn người quá cố đều đã chu toàn luật tham dự thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc. Tuy nhiên, khi cử hành an táng vào Chúa nhật thuộc mùa Giáng sinh và thường niên, thì linh mục lại được phép cử hành bản văn thánh lễ an táng, với các yếu tố phải có của ngày Chúa nhật và lễ buộc, ví dụ : bài giảng, Kinh Tin kính, lời nguyện chung... và những ai tham dự thánh lễ này cũng đã chu toàn luật buộc tham dự thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc đó [1].

Người ta cần phân biệt thánh lễ an táng và nghi thức an táng là hai cử hành khác nhau [1]. Khi luật phụng vụ cấm không được cử hành thánh lễ an táng, có nghĩa là không được phép dùng bản văn phụng vụ của thánh lễ an táng, mà linh mục sẽ cử hành thánh lễ cho người quá cố theo bản văn phụng vụ của ngày lễ quy định. Người ta không được đồng hóa việc đem thi hài người quá cố vào thánh đường thì xem thánh lễ đó là thánh lễ an táng. Việc đem thi hài chỉ liên quan đến nghi thức an táng được cử hành sau thánh lễ, nghĩa là nghi thức tiễn biệt, và vì lý do này luật phụng vụ cấm không được cử hành nghi thức tiễn biệt mà không có xác [1]. Nói cách khác, Hội thánh không ngăn cản an táng người chết vào bất cứ ngày nào, khi luật phụng vụ cấm không được cử hành thánh lễ an táng thì linh mục chủ tế không dùng bản văn thánh lễ an táng mà sẽ dùng bản văn phụng vụ theo ngày quy định. Khi cử hành thánh lễ xong, tức là sau khi kết thúc lời nguyện hiệp lễ, linh mục sẽ cử hành nghi thức an táng (tiễn biệt) cho người quá cố, nghi thức này không thuộc thành phần của thánh lễ và là một cử hành phụng vụ độc lập ; vì thế nghi thức này vẫn được cử hành cho người quá cố ngay cả khi không thể cử hành thánh lễ cho người chết vì một lý do nào đó [1].

2. Đối với thánh lễ cưới hay các thánh lễ khác như : thánh lễ ban Bí tích Thêm sức, thánh lễ ban các bí tích khai tâm, thánh lễ cung hiến thánh đường, thánh lễ khấn dòng... gọi chung là những thánh lễ có nghi thức riêng, tức những thánh lễ được liên kết với việc cử hành một bí tích hoặc á bí tích nào đó [1]. Thông thường, các thánh lễ này có bản văn phụng vụ riêng biệt được dùng chung với cử hành bí tích hay á bí tích. Tuy nhiên, vì tầm quan trọng của mầu nhiệm cử hành, nên quy luật phụng vụ không cho phép cử hành các thánh lễ có nghi thức riêng vào những ngày sau đây : “Các Chúa nhật thuộc mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục sinh ; các lễ trọng ; tuần Bát nhật Phục sinh ; ngày lễ các đẳng (2/11) ; thứ Tư lễ Tro và tuần Thánh. Ngoài ra còn phải tuân giữ các quy luật riêng cho từng bí tích hay á bí tích được trình bày trong các sách nghi thức riêng” [1]. Nói cách khác, khi quy luật không cho phép cử hành thánh lễ có nghi thức riêng vào những ngày quy định, thì điều này có nghĩa là linh mục chủ tế không dùng bản văn phụng vụ riêng của bí tích hay á bí tích đó, mà ngài buộc phải dùng bản văn phụng vụ của thánh lễ quy định, rồi sau phụng vụ Lời Chúa sẽ cử hành bí tích hay á bí tích riêng. Ví dụ : Hôn phối được cử hành vào Chúa nhật mùa Vọng, thì chủ tế phải dùng bản văn phụng vụ của Chúa nhật mùa Vọng, rồi sau bài giảng ngài chứng hôn cho đôi hôn phối ; hoặc Thêm sức vào lễ Đức Mẹ Lên Trời, thì chủ tế phải dùng bản văn phụng vụ của lễ Mẹ Lên Trời, sau bài giảng thì ban Bí tích Thêm sức. Vì bậc ưu tiên của các lễ khác nhau, nên Sách lễ Rôma trình bày một Bảng thứ tự ưu tiên duy nhất áp dụng cho mọi thánh lễ, Bảng này nằm tại số 59 trong phần “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch”.

Tóm lại, khi cử hành thánh lễ cưới vào ngày Chúa nhật, vị chủ tế phải xem Chúa nhật đó thuộc mùa nào ? Bản văn phụng vụ sẽ dùng ra sao ? Cần phải có những yếu tố của thánh lễ Chúa nhật như kinh vinh danh, bài giảng, Kinh Tin kính, lời nguyện chung... và khi người tín hữu tham dự thánh lễ này thì họ đã chu toàn luật buộc tham dự thánh lễ Chúa nhật. Một lưu ý quan trọng là : linh mục chủ tế không được ghép nối lời nguyện của hai lễ khác nhau rồi đọc một lời kết chung. Trong mỗi thánh lễ chỉ đọc một lời nguyện mà thôi và chỉ đọc lời nguyện của lễ có quyền ưu tiên hơn [1].

TRUYỀN CHỨC LINH MỤC CHO PHỤ NỮ

Thưa cha, con nghe nói bên các nước có việc phong chức linh mục cho phụ nữ và những người này đã bị vạ tuyệt thông. Xin cha cho biết rõ về việc này và quan điểm của Giáo Hội Công Giáo. Dựa vào những lý do nào mà Giáo Hội không truyền chức Linh Mục cho phụ nữ ?

Giải đáp

Về chuyện phong chức linh mục cho nữ giới thì đã xẩy ra trong Giáo Hội Anh Giáo từ năm 1994. Còn trong Giáo Hội Công Giáo thì vấn đề  này cũng đã được các nhà thần học đưa ra, đã được bàn cãi khá nhiều và đã có những văn kiện của Giáo Hội chính thức bày tỏ quan điểm. Có  thể lược qua một số những câu trả lời quan trọng để hiểu rõ hơn vấn đề này hơn.

Ngày 30 tháng 11 năm 1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã trình bầy  lập trường của Giáo Hội Công Giáo để trả lời cho Tiến sĩ Frederick Donald Coggan, Tổng Giám Mục Cantoberry ( Anh Giáo) về việc trao tác vụ linh mục cho phụ nữ:

" Giáo Hội cho rằng việc phong chức linh mục cho phụ nữ không thể chấp nhận được vì những lý lẽ hoàn toàn cơ bản. Những lý lẽ này, đặc biệt như Kinh Thánh đã ghi lại, là guơng của Đức Kitô đấng chỉ tuyển chọn các Tông Đồ là những người nam; Giáo Hội cũng bắt chước Đức Kitô mà  thực hành y như vậy là chỉ chọn nam giới; và Huấn quyền hiện nay vẫn liên tục bảo vệ lập trường không chọn phụ nữ vào chức linh mục là phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa trên Giáo Hội "

Sau đó vấn đề này vẫn tiếp tục được các nhà thần học bàn cãi nên Đức Thánh Cha Phaolô VI đã yêu cầu Bộ Giáo Lý Đức Tin trình bầy và làm sáng tỏ giáo thuyết của Giáo Hội về điểm này.

Ngày 15 tháng 10 năm 1976, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ra Tuyên Bố Inter Insigniores được Đức Thánh Cha châu phê và cho phổ biến. Văn kiện này đã kết luận là “ Giáo Hội không tự cho rằng mình được phép chấp thuận truyền chức cho phụ nữ” ( Inter Insigniores, 5). Ngoài những lý lẽ cơ bản, văn kiện này còn đưa thêm những lý lẽ thần học làm sáng tỏ sự tương hợp với việc Thiên Chúa đã định liệu và chứng tỏ rõ ràng việc Đức Kitô đã thực hiện khi truyền chức cho nam giới không  do động cơ xã hội hoặc văn hoá của thời đại.

Ngày 15 tháng 8 năm 1988 trong Tông thư Mulieris Dignitatem, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết :

" Khi kêu gọi chỉ những người nam để trở nên các Tông Đồ, Đức Kitô đã hành động cách hoàn toàn tự do và độc lập. Ngài đã làm điều đó cũng với sự tự do như khi Ngài đề cao phẩm giá ơn gọi phụ nữ trong tất cả; cách cư xử của Ngài không theo những xu thế tập tục hay những truyền thống mà luật pháp thời ấy chuẩn nhận” (Mulieris Dignitatem ,26).

Trong Tông Thư "Ordinatio Sacerdotalis", Đức Thánh Cha nhận định rằng:

" Mặc dù đạo lý về việc truyền chức tư tế chỉ dành cho nam giới đã được Truyền Thống liên tục và phổ quát của Giáo hội bảo tồn và đã được Huấn quyền của Hội thánh cương quyết giảng dạy trong các văn kiện gần đây, nhưng đạo lý ấy vẫn bị nhiều người coi là đối tượng còn được tranh luận, hoặc họ coi lập trường của Giáo hội không chấp nhận truyền chức linh mục cho phụ nữ chỉ có tính chất thuần túy là kỷ luật mà thôi ” (Ordinatio Sacerdotalis.4).

Trước tình huống như thế , Đức Thánh Cha  long trọng khẳng định:

" Vì thế, để không còn hồ nghi nào về một vấn đề quan trọng liên quan tới cơ cấu Giáo hội do Chúa thiết lập, tôi nhân danh sứ mạng củng cố các anh em tôi (cf Lc 22,32) mà tuyên bố rằng Giáo Hội không hề có quyền truyền chức tư tế cho phụ nữ và lập trường này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ. "( Ordinatio Sacerdotalis, 4.)

Với lời quả quyết trên đây, Đức Thánh Cha  chính thức tuyên bố tính chất dứt khoát và bó buộc của đạo lý về việc chỉ truyền chức tư tế, tức là chức Linh mục và Giám mục cho nam giới.

Trong thời gian sau đó, còn có một số người hồ nghi không biết đạo lý trên đây có tính chất chung kết, thuộc về kho tàng đức tin của Giáo Hội và bất khả ngộ hay không. Ðể đánh tan nghi ngờ ấy, ngày 18-11-1995, Bộ giáo lý đức tin đã ra thông cáo xác nhận đạo lý của Đức Thánh Cha  trong Tông Thư "Ordinatio Sacerdotalis" là điều thuộc về "kho tàng đức tin" của Hội Thánh, có tính chất chung kết và bất khả ngộ. Văn kiện mang chữ ký ngày 28-10 năm 1995 của ÐHY Tổng trưởng Joseph Ratzinger đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phê chuẩn và truyền công bố ngày 18-11-1995

Với những văn kiện chính thức và tuyên bố rõ ràng như vậy của Giáo Hội  vẫn có những nhóm ly khai hay những phong trào không chấp nhận lập trường của Giáo Hội và đã có những hành vi thách thức.

Ngày 29-6-2002 , 1 người gọi là Giám mục Romulo Braschi, người Argentina, không phải là Giám Mục Công Giáo và cũng không được Tòa Thánh công nhận, cử hành lễ truyền chức cho 7 phụ nữ, gồm 4 người Ðức, 2 người Áo và 1 người Mỹ, trong  một con tàu trên sông Danube, trước sự hiện diện của 300 người. Braschi nguyên là một linh mục đã ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo và bị vạ tuyệt thông. Ông nói rằng mình thuộc Giáo Hội Công Giáo tông truyền đặc sủng thánh linh "Chúa Kitô Vua".

Ngày 10-7-2002 , Bộ Giáo Lý Đức Tin đã cảnh cáo 7 phụ nữ nói trên và kêu gọi họ hoán cải và nhìn nhận sự vô hiệu việc chịu chức của họ trước ngày 22-7-2002 nếu không sẽ bị vạ tuyệt thông, nhưng họ nhất mực ngoan cố từ chối. Lời cảnh cáo nhắc cho họ biết giáo lý của Giáo Hội  về vấn đề này, được Đức Thánh Cha  Gioan Phaolô II diễn tả trong tông thư  về "Việc Phong chức Linh Mục" (Ordinatio Sacerdotalis). Tông thư này xác định rằng Giáo hội không có quyền để phong chức linh mục cho Phụ nữ.

Lời cảnh Cáo (monitum) tuyên bố, "Việc thụ phong linh mục  nêu trên, là một bí tích giả tạo và do đó không có giá trị và không có hiệu lực pháp lý; đây là một việc tấn công nghiêm trọng vào hiến chế của Giáo Hội”.

Nhận thấy các phụ nữ đó không có dấu hiệu gì hoán cải, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger lúc ấy là  Tổng trưởng, và vị Tổng thư ký là Ðức Tổng  Giám mục Tarcisio Bertone, đã ban hành sắc lệnh tuyên bố 7 phụ nữ bị mắc vạ tuyệt thông và chỉ Tòa Thánh mới có quyền giải vạ này. Sắc lệnh cũng bày tỏ hy vọng các phụ nữ đó, nhờ ơn Chúa, có thể tìm lại con đường hoán cải, trở về hiệp nhất trong đức tin và hiệp thông với Giáo Hội.

Mới đây ngày  25/7/2005, lại có thêm một vụ phong chức linh mục và phó tế cho 9 phụ nữ trên một chiếc tàu tại khu vực  sông Saint-Laurent, gần Kingston, Ontario, Canada. 9 phụ nữ này gồm có 7 người Hoa Kỳ, hai người Canada. Họ được “truyền chức” bởi ba phụ nữ cho mình đã được  tấn phong là "Giám Mục" vào mùa xuân năm 2003 ". Đó là Christine Mayr-Lumetzberger (người Áo) , Gisela Forster(người Đức) và một người Nam Phi.

Giáo luật hiện hành, điều 1024, tiếp nối truyền thống của Hội Thánh, quy định rằng:

"Chỉ người nam đã chịu phép rửa tội mới đuợc lãnh nhận bí tích truyền chức thánh cách hữu hiệu".

Vì thế những cuộc phong chức như vậy đều không thành sự.

Phải chăng Giáo Hội có thái độ kỳ thị đối với phụ nữ trong khi ngoài xã hội phụ nữ đã được giữ các chức vụ như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng, dân biểu hoặc chủ tịch quốc hội ?

Sở dĩ cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo không truyền chức linh mục cho phụ nữ vì Giáo Hội xác tín rằng thánh chức không phải là một đặc quyền hay một đặc ân, và cũng không phải là một quyền căn bản của mọi người, nhưng là một phận vụ, một công tác phục vụ mà Chúa ủy thác cho một số người, theo đặc sủng của Thánh Linh. tuyên ngôn Inter Insigniores, ban hành năm 1976, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã khẳng định rằng :

Giáo Hội là một thân thể trong đó mỗi chi thể có phận sự khác nhau; các trách vụ khác biệt nhau và không lẫn lộn với nhau. Những phận vụ đó không mang lại  sự cao trọng của chi thể này trên chi thể khác: chúng không được làm cớ cho sự ghen tương. Chỉ có một đặc sủng duy nhất cần phải ao ước, đó là đức bác ái (cf 1 Co 12-13). Những người lớn nhất trong nước trời, không phải là các thừa tác viên (có thánh chức), nhưng là những vị thánh ( Inter Insigniores, 40).

Đằng khác, chính Đức Maria Thân Mẫu của Chúa Giêsu, là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội cũng không nhận được sứ vụ Tông Đồ hay chức Linh Mục thừa tác chứng tỏ rằng việc phụ nữ không chịu chức linh mục không có nghĩa rằng phẩm giá phụ nữ tỏ ra thấp kém và là đối tượng của sự phân biệt đối xử.

Truyền thống lâu dài và phổ quát suốt 20 thế kỷ qua của Giáo Hội Công Giáo cũng như Giáo Hội Chính Thống và các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương đều đồng thanh xác tín như vậy là không truyền chức linh mục cho phụ nữ.

Với tất cả những lý do trên đây mà Giáo Hội thấy rằng không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ chứ không phải vì có sự kỳ thị đối với nữ giới.

CÙNG ĐỌC & SUY NGHĨ 

BẠO LỰC : VŨ KHÍ CỦA KẺ YẾU

 

Gần đây, nhiều vụ xâm hại và hù dọa trẻ em được dư luận chú ý và chắc chắn trong thực tế những vụ này còn phổ biến hơn ta tưởng. Điều này không lạ vì nói chung hù doạ là biện pháp “giáo dục” khá phổ biến trong gia đình VN. Để cấm trẻ làm gì đó người ta hay nhát ma hay hù ông kẹ, vì họ tưởng biện pháp” ông kẹ” là một cách giáo dục hữu hiệu nhất.

 

Một “biện pháp’ khác “hiệu quả’ và đỡ mỏi miệng hơn, chính là đánh đòn, không ít cha mẹ luôn “dạy” con bằng cách “đánh cho nó chừa”. Có người nói, trẻ chưa hiểu gì nên phải đánh cho nó sợ. Có lần tôi đau đứt ruột khi nhìn một bà mẹ trẻ đánh tới tấp đứa con mới bảy tháng của mình, vì nó khóc, không cần xem trẻ khóc vì lý do gì. Chị càng đánh nó càng khóc ngất. Tức giận, người mẹ vô ý thức lại tiếp tục đánh. Dĩ nhiên những dấu ấn khủng khiếp này sẽ ăn sâu và ảnh hưởng mạnh mẽ trên hành vi của đứa trẻ khi lớn lên. Không lạ gì nếu nó trở thành một kẻ hận đời, bạo lực, căm thù người khác.

 

Chểnh mảng trong chăm sóc con cũng là một hình thức bạo hành. Ở xóm cũ của tôi có một gia đình “bụi đời” một mẹ bốn con. Suốt ngày bà mẹ lo kiếm ăn, giao đứa bé hai đứa tháng cho ba đứa lớn không quá 10 tuổi. Hùng, tên đứa bé, được các anh chị cắp nách tha đi hết xóm này qua xóm nọ. Chừng một tuổi, mặt Hùng thật ngầu và không biết cười. Lớn lên Hùng sẽ ra sao thì ta biết rồi.

 

Nhưng tôi thật sự bàng hoàng khi trong một buổi họp về giáo dục, nghe một cô giáo tuyên bố chắc mẻm như một “ lý thuyết sư phạm”: không đánh không dạy được. Và tôi nghĩ cô nói thật lòng, vì cô không được trang bị một công cụ giáo dục nào khác và lớn lên cô chỉ biết có một mô hình : đánh.

 

Nhìn người rồi nghĩ đến ta mà buồn ! Ở một số nước tiên tiến ngày này, khi cha mẹ đánh con thì bị ra toà. Thường quần chúng cũng sẳn sàng tố giác họ. Ở Mỹ, từng xảy ra một chuyện đáng buồn cuời nhưng cho thấy quyết tâm bảo vệ trẻ em của họ. Một bé gái VN đến trường với những vết bầm trên tay và lưng. Nhà trường tức tốc báo cảnh sát. Khi tới nhà em và với sự can thiệp của chuyên gia, họ mới hiểu ra và chịu tin là em bị cảm và cha mẹ đã cạo gíó !

 

Vì sao xự thô bạo trong cư xử nói chung và đối với trẻ em nói riêng còn quá phổ biến ở xã hội ta ? Đó là một vấn đề văn hoá. Châm ngôn : “thương cho roi cho vọt” còn được hiểu theo nghĩa đen hơi nhiều. Văn hoá bao gồm những nếp nghĩ và thói quen tốt có, xấu có. Ta học nó một cách vô ý thức. Ta máy móc làm theo cái gì thấy xung quanh ta, nên đánh đập trở thành chuyện bình thường. Nó trở thành một nét “ văn hoá’.

 

Có lần tôi đang ngồi trên phà băng qua một con sông lớn đang đóng băng  giữa mùa đông giá lạnh ở Hàn Quốc. Khi trời lạnh quá người Hàn quốc  cũng dễ nổi nóng như ta, mọi người ưa đổ quạu. Một cuộc ẩu đả xảy ra giữa hai nhóm hành khách làm tôi điếng hồn. May mà có người cùng đi với tôi. Qua VN làm ăn, các chủ nhân người Hàn cũng nổi tiếng về các vụ bạo hành công nhân.

 

Ví dụ trên muốn nói rằng một dân tộc có thể văn minh tiến bộ về kinh tế, khoa học kỹ thuật, nhưng vẫn không từ bỏ được những nét văn hoá lạc hậu đã ăn sâu. Không thể thay đổi tình hình bằng những lời kêu gọi suông hay những biện pháp hình sự mà cần có một sự bừng tỉnh của cá nhân và cả dân tộc.

 

Phải nhận ra rằng : “Bạo lực là vũ khí của kẻ yếu”. Cô giáo kể trên hay những bậc cha mẹ đụng đâu đánh con đó là những người yếu.“ Yếu” về kiến thức tâm lý thông thường và kỹ năng làm chủ cảm xúc của bản thân. Tôi thấy có những cha mẹ rất gần gũi và thường vui đuà với con. Họ luôn dành thời giờ để giải thích cho con thật cặn kẽ những điều cần dạy chúng. Thường chỉ cần họ nghiêm sắc mặt là trẻ biết lỗi. Có những cha mẹ rất mềm mỏng nhưng lại rất mạnh. “Mạnh” trong sự hiểu biết và khả năng thuyết phục. “Mạnh’ trong nguyên tắc trước sau như một và trong sự làm gương.

 

Những kẻ bạo lực không chỉ yếu mà còn bệnh. Có những người mà bạo lực trở thành một căn bệnh không răn đe được mà phải chữa trị. Tôi có xem một cuốn phim về gia đình trị liệu, trong đó nhà tâm lý trị liệu cằm tay người cha bạo lực, tập cho nó vừa vuốt ve nhẹ nhàng vừa nói những lời yêu thương với vợ con mình. Làm một hồi anh ta bật khóc và nhận ra mình. Anh ta phải trải qua nhiều đợt trị liệu như vậy mới hy vọng lành bệnh.

 

Phải tiến thêm trong các biện pháp tâm lý trị liệu để cứu vớt những bệnh nhân là tác giả hay nạn nhân của bạo lực. Nói có thể thừa, nhưng cái nền chính là lòng nhân trong việc đối xử với nhau.

 

Thạc sĩ xã hội học

Nguyễn Thị Oanh

Theo báo Phụ Nữ

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Giáo dục con cái

 

 CÁI GỐC LÀ Ở GIA ĐÌNH

 

 

 Một giờ sáng thứ bảy 26-4-2007, 1163 thanh thiếu niên nam nữ bị bắt giữ để điều tra tại vũ trường New Century tại Hà Nội, không có những chi tiết nào về thành phần ăn chơi như vậy xuất phát từ những gia đình nông thôn, những gia đình thành thị thuộc thế giới thứ tư, những gia đình nghèo sống bằng cách phục vụ cho những người giàu có, hoặc những gia đình trung lưu đang luôn luôn lo lắng vì đồng lương càng ngày càng mất giá trị so với sự gia tăng hằng ngày của thực phẩm, tiền điện, tiền nước, áo quần và nhà cửa.

 

Những thanh niên thiếu nữ con nhà quyền thế và giàu có, ăn chơi thả giàn vung tiền qua cửa sổ ấy không xuất phát từ những gia đình bình thường trong đó nền tảng gia đình còn bền chặt. Những khuôn mẫu hay những thần tượng ca nhạc trong nước, ngoài nước – những mẫu người của những cô cậu con nhà giàu sang đó – xuất phát từ những gia đình giàu có, mà cuộc sống của họ nhằm vào việc càng sở hữu nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.

 

“Trong vòng năm mươi năm qua, xã hội chúng ta đã đầy ấp ý tưởng cho rằng muốn có nhiều phải sở hữu nhiều. Vì thế thay vì có nhiều con cái để rồi hy sinh cho chúng, những gia đình Au Mỹ đã đổ tiền vào bản thân họ. Mỗi năm phải đi nghỉ mát ở nước ngoài. Trong nhà ngoài ngõ phải có những tiện nghi tối thiểu: Tivi 50 inches, hai chiếc xe hơi, một ngôi nhà miền quê, một con tàu du lịch và cả một hòn đảo xa xôi nào đó. Và sau khi đã có đủ những thứ đó, người ta phá thai vì lý do không đủ tiền để nuôi nấng chúng!

 

Đầu óc ích kỷ lớn lao và không có một chút yêu thương nào như trên được các phương tiện truyền thông cổ vũ thêm. Một trong những thí dụ tồi tệ nhất xảy ra trên tạp chí US News and World Report số ngày 30-3-1998. Người ta thấy gương mặt dễ thương của một em bé với lời ghi chú: “Phí tổn nuôi nấng một trẻ sơ sinh”. Bạn có tin là phí tổn ấy lên tới 1.455.581 đô la hay không? Khi người ta đọc những dòng chữ không mang tính xây dựng như vậy, người ta sẽ có cảm tưởng là nuôi một em bé tốn kém vô cùng”.

KK. là một thanh niên trung niên. Với số tuổi trên dưới 40, anh đã có 2 đời vợ. Vợ trước đã ly dị và có với anh một con gái gần 20 tuổi. Vợ sau, con một nhà quý tộc thời đại, có với anh một cậu con trai 5 tuổi. Sáng sáng anh ngồi xổm trước hàng hiên ăn cơm nguội trên bặc thềm căn villa mới xây, gọi điện thoại cho đệ tử bàn chuyện làm ăn. Cậu con học trường quốc tế đã có xe đến đón. Những buổi học thêm gần nhà trong xóm cậu quý tử bụng phệ mập ú đi trước, bà vú nuôi xách cặp che dù cho cậu đi sau. Một hình ảnh biểu tượng của giai cấp mới.

 

Bà Ly Ly lấy chồng lúc 17 tuổi. Anh chồng có hai căn nhà nên cha mẹ hỉ hả thấy con gái mình trúng số. 18 tuổi bà có đứa con đầu. 20 tuổi đứa con thứ hai. Hai đứa con hai người vú nuôi thuê từ ngoài Bắc. Sáng sáng mang tô sang quán hủ tiếu gần nhà mua về cho hai công chúa. Chiều chiều lại đẩy xe quanh xóm cho mấy đứa nhỏ đi chơi. Cha mẹ đều mắc bận làm ăn nên chưa bao giờ thấy vui đùa cùng con cái. Bé lớn 11 tuổi, nhưng nhìn chỉ bằng em bé 5 tuổi, vừa ốm vừa lùn, nhìn kỹ chỉ thấy hai hàm răng. Bé nhỏ khi lên 9 tuổi, vẫn còn nằm lọt trong xe đẩy. Mẹ mắc đi làm mà. Bà ngoại thì còn te-rẹt với chòm xóm gồm toàn những người nhàn rỗi nhiều chuyện. Chợt một ngày bà Ly Ly – lúc này đã đi làm công ty nước ngoài – tuyên bố ly dị anh chồng An-nam-mít để theo mốt thời thượng lấy một ông tây bằng tuổi ông nội để gọi là đổi đời và theo mốt. Gia đình bà Ly Ly hả hê: Con tôi bây giờ giàu sang lắm, bà giám đốc công ty nước ngoài mà lị.

 

Chung quanh thành phố chúng ta đang xây dựng những khu nhà cao cấp có trung tâm thương mại, có khu vui chơi, có trường học do người nước ngoài làm chủ, có đủ thứ với tường cao hào sâu, cây xanh, lộ lớn.

 

Hỏi tại sao nhà cao cửa rộng mọc lên nhiều, cũng như khối lượng thạc sĩ tiến sĩ chưa bao giờ nở rộ như lúc này mà tội phạm trong xã hội lại không bớt (mà còn có chiều hướng gia tăng)? Thưa, vì giữa những khu nhà cao cấp và đầy đủ tiện nghi ấy không thấy bóng dáng của một ngôi nhà thờ hay một ngôi chùa nào cả. Còn bên trong những tòa nhà đồ sộ ấy là biết bao âm mưu, toan tính làm giàu, buôn gian bán lận.

 

 

Trần Bá Nguyệt

 

 

TÔBIA & SARA

Có một điều rất giống nhau ở nhiền nơi, là trong những ngày cưới, khi xe hoặc đò chở cô dâu chú rể chạy ngang, thì người ta cũng cố ngoái cổ để nhìn xem cô dâu đẹp hay xấu. Nhất là khi xe dừng lại trước cửa nhà trai. Cô dâu và chú rể đứng ở ngoài cổng để chờ người nhà ra đón, thì rất đông trẻ con và các bà các cô hay xúm lại, để nhìn cho bằng được cô dâu: Để xem cô dâu hôm nay đẹp hay xấu.

 

Làm cô dâu, là giây phút đẹp nhất của người con gái. Và con gái thường tự hào về vẻ đẹp của mình. Chính vẻ đẹp đó, làm mê mẩn đàn ông. Và kết thúc bằng một đám cưới.

 

Thế nhưng, có một câu chuyện xảy ra trong Thánh kinh mà ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay.

 

Đó là câu chuyện của Tôbia với nàng Sara. Trong giây phút kết hôn, Tôbia đã cầu nguyện với Chúa thế này: “Lạy Chúa, không phải vì lý do sắc dục mà tôi cưới cô em đây làm vợ, mà chỉ vì muốn có đông người thờ phượng Chúa”.

 

Có bạn trẻ nghe lời cầu nguyện này, đã chê Tobia là cổ hũ, là quá cụ. Lấy vợ mà vợ không đẹp thì còn ra cái gì nữa.

Nhưng xin bạn bình tĩnh.

 

Nói như thế, không có nghĩa là Tobia chê Sara xấu, mà là một cách nào đó, hiểu được, Tobia đang khen Sara là một cô gái rất đẹp.

 

Cái hệ trọng là ở chỗ: sắc đẹp không là mục đích cuối cùng của Tobia khi bước vào hôn nhân.

 

 Tại sao không là mục đích cuối cùng? Thưa bởi:

 

1/ Sắc đẹp thân xác là điều mau qua

 

Không có sắc đẹp nào ở trần gian này là vĩnh viễn. Thời gian luôn là tên đao phủ, lạnh lùng cướp đi nhan sắc.

Trên báo, trên ti vi, lúc nào cũng đầy những dòng quảng cáo, nào kem, nào sữa đủ kiểu, để bảo vệ sắc đẹp, để chống nhăn, chống nám. Thế mới biết nhan sắc là mỏng manh mau tàn.

 

Bởi vậy, nếu mục đích cưới một người chỉ vì nhan sắc, là một liều lĩnh ghê gớm, bởi một khi nhan sắc không còn, thí dụ bị tai nạn, bị một ca át xít, thì tình yêu cũng vỡ tan.

 

Hơn nữa, đặt tình yêu trên nền tảng nhan sắc, là coi thường người bạn đời của mình. Bởi vì như thế chỉ có giá trị bên ngoài, một giá trị nhẹ tênh, chỉ như  con búp bê biết cười. Không có giá trị của một người đúng nghĩa.

 

2/ Sắc đẹp không là tất cả

 

Để làm một người vợ, một ngừơi nội tướng trong gia đình, thì đòi hỏi người phụ nữ phải có muôn vàn yếu tố, ở mọi mặt thực tế.

 

Đầy người đàn ông có vợ đẹp, mà lại có vợ hai, với một người đàn bà khác, xấu hơn rất nhiều. Nhưng người đàn ông cứ si mê, mãi mãi không bỏ được. Bởi người đàn bà ấy tuy xấu, nhưng lại rất giỏi nội trợ. Nhà cửa quần áo bao giờ cũng gọn gàng, cơm nước bao giờ cũng sạch sẽ, tươm tất.

 

Có những người phụ nữ, tuy nhan sắc không mặn mà, nhưng lại có duyên, biết mềm mỏng trong lời nói, trong cung cách đối xử.

 

Đầy người đàn bà tuy có nhan sắc rực rỡ, mà lại rất đoảng, rất vụng về, rất vô duyên. Khi mà đã ghét rồi, thì nhan sắc chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Trông thấy mặt là đã chán ngán lắm rồi.  Cho nên, cái yếu tố hệ trọng nhất trong đời sống gia đình, là cái cách đối xử với nhau, là biết đi đúng vào tâm lý. Biết người ấy là đàn ông, hay đàn bà, đàn ông thì thích gì, thích thế nào, đàn bà thì thích muốn gì, chờ đợi gì.

 

Vợ Hứa Doãn là Nguyễn Thị, là người nhan sắc kém cỏi, khi mới cưới về, Doãn đã tính bỏ đi, không chịu được nữa, một hôm Hứa Doãn hỏi vợ:

 

Đàn bà có tứ đức, vậy nàng được mấy?

 

Thị đáp:

- Thiếp đây chỉ thiếu có mỗi Dung thôi. Còn chàng, chàng có những gì?

Doãn đáp”

- Ta đây có đủ bách hạnh.

- Chàng nói không đúng. Bách hạnh thì Đức là đầu. Chàng là người hiếu sắc, không hiếu đức, thế thì làm sao có đủ bách hạnh?

Nghe vợ nói thế, Doãn cả thẹn, không dám có ý ly dị nữa. Sau này, hai vợ chồng sống rất hòa thuận hạnh phúc.

 

 3/ Sắc đẹp tâm hồn mới là điều quan trọng

 

 Cho nên, Tobia lấy Sara không phải là vì nhan sắc, mà vì tình yêu, một tình yêu cao thượng. Cái giá trị của Sara được nâng cao hẳn lên.

 

Bởi vậy, với Tôbia, Sara là một giá trị cao cả, bởi nơi con người ấy, có tích chứa một kho tàng cao quý, đó là lòng Đạo Đức.

 

Lòng đạo đức là nền tảng để dệt thành giá trị một con người.

 

Lòng đạo đức ấy, sẽ xây dựng gia đình thành một tổ ấm ngọt ngào.

 

Lòng đạo đức, sẽ dạy cho người ấy biết phải làm gì cho đúng. Sẽ dạy người ấy biết cách đối xử với nhau cho đúng nhân phẩm.

 

Lòng đạo đức ấy, sẽ như một bông hoa rực rỡ và ngạt ngào hương thơm, để ướp thơm hết mọi hành động của mình.

 

Lòng đạo đức ấy chính là vẻ đẹp tuyệt vời của tâm hồn. Nó sẽ trường tồn tự tại, và còn trường tồn nơi người mình yêu.

 

Và điều đặc biệt hơn cả, là lòng đạo đức ấy, sẽ ướp hương đạo đức cho những bông hoa tình yêu là những đứa con.

Với một vẻ đẹp tâm hồn, người mẹ sẽ dẫn những đứa con của mình đi trong đường lối của Chúa, để chúng thành những người con ngoan của Chúa! Những người sẽ nối tiếp cha mẹ của mình sau này.

 

Bởi vậy, Tobia mới thưa với Chúa: Là lấy Sara là vì dòng dỏi những người kính sợ Chúa.

 

Con cái chính là tình yêu trông thấy của sự yêu thương với cha và mẹ. Tình yêu ấy sẽ là thứ bỏ đi, nếu nó không trở thành những kẻ kính sợ Thiên Chúa.

 

Lời cầu nguyện của Tobia, quả thật là một lời cầu nguyện sâu sắc, và nồng nàn tình yêu với Thiên Chúa.

 

Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm

SỐNG CHỨNG NHÂN

BÁC SĨ ALBERTO NERI FERNANDEZ, CHẾT VÌ QUẢNG ĐẠI


Chiều hôm 19.10.2002, một ngày thứ bảy, bác sĩ Alberto Neri Fernandez vừa thuyết trình xong trong cuộc hội thảo về luân lý đạo đức tại đại học Thánh Tâm ở Bauru, bang Sao Paolo, Brazil.


Lúc 4 giờ chiều, bác sĩ lên xe lái ra khỏi đại học hướng về Votuporanga, cách đó 200 cây số, để gặp gỡ một cộng đoàn trẻ em sống theo tinh thần phong trào Tổ Ấm như đã dự định. Nhưng bác sĩ đã không bao giờ đến nơi. Trong khi các lực lượng an ninh nỗ lực tìm kiếm, phong trào Tổ Ấm tại Brazil và trên toàn thế giới phát đọng chiến dịch cầu nguyện cho bác sĩ Alberto.


15 ngày sau đó, cảnh sát Brazil bắt giam hai quân nhân trẻ can tội hạ sát một bác sĩ một tuần trước để ăn cướp và khi bị khảo tra, hai quân nhân này đã thú tội hạ sát bác sĩ Alberto. Hai quân nhân nói trên đã quyết định thực hiện các vụ cướp của này vì gặp khó khăn tài chính và đã quyết định giết chết nạn nhân để tránh khỏi bị nhận diện. Hai người này đã giả vờ làm khách xin quá giang và Alberto, vốn tính quảng đại, đã cho họ lên xe. Nào ngờ kẻ chịu ân đã biến thành tướng cướp, mặc dù Alberto chỉ mang theo trong mình số tiền tương đương với 10 euro và một quả lục lắc tình yêu lớn, 6 mặt mang 6 chỉ tiêu của nghệ thuật tình yêu: ”Hãy yêu trước đã; yêu tất cả mọi ngưko; yêu cả các kẻ thù; yêu Chúa Giêsu trong mọi người; yêu cụ thể và yêu theo tưng giai đoạn cuộc đời.” Đây chính là kim chỉ nam cuộc sống của Alberto, nhưng không cản được ác ý của hai quân nhân kia. Họ cũng đã chỉ chỗ vùi xác Alberto, trong một vườn trồng mía mênh mông.


Bài giảng thánh lễ an táng Alberto đã đi lại những giai đoạn cuộc đời người y sĩ trẻ này. Alberto sinh ra trong một gia đình Uruguay nghèo khổ. Năm lên 10 tuổi, cha của Alberto chết bất ngờ, bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ. Mẹ của Alberto đã phải làm thuê làm mướn ở thủ đô Montevideo để nuôi hai con thơ dại. Tuổi niên thiếu của Alberto trải dài trên những khó khăn của cuộc sống nghèo túng cho tới khi 15 tuổi, Alberto tình cờ gặp một nhóm người trẻ thuộc phong trào Tổ Ấm và qua đó, khám phá ra tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa, một tình yêu có đủ sức lấp đầy những thiếu xót đắng cay của cuộc đời. Trong hân hoan và hy sinh mọi cách, vừa học vừa đi làm, người thiếu niên này đã hoàn tất đại học y khoa, trở thành bác sĩ. Ít lâu sau đó, Alberto quyết định dấn thân bước theo Chúa trong phong trào Tổ Ấm.

Năm 1996, bác sĩ Alberto sang phục vụ tại Trung Tâm Thành Đức Mẹ ở Fontem giữa rừng già tây Cameroun, Phi Châu, làm việc trong nhà thương do phong trào Tổ Ấm thành lập nơi đây để chống trả nạn tử số trẻ em rất cao ở vùng này. Cũng trong thời gian này, bác sĩ tận tụy nghiên cứu về bệnh liệt kháng SIDA hay còn gọi là AIDS đang giết hàng loạt người dân Phi châu. Thời gian sau, bác sĩ sang Brazil để học lấy bằng thạc sĩ về bệnh nhiệt đới và đào sâu công trình nghiên cứu bệnh liệt kháng, với ý định trở về Cameroun một khi hoàn tất xong việc học để tiếp tục phục vụ. Thế nhưng ý Chúa đã định khác. Chiều thứ bảy 19.10.2002, những bàn tay sát nhân đã lợi dụng một hành động quảng đại của người y sĩ trẻ để cướp đi một số tiền nhỏ và sự sống của Alberto.

 

Sau 15 ngày vùi nông trong ruộng mía, thi hài của Alberto đã được đưa về thành Đức Mẹ Ginetta của phong trào Tổ Ấm, nằm trong vùng phụ cận San Paolo. Thánh lễ cầu nguyện cho hương hồn Alberto liên tục được cử hành kéo dài suốt đêm bên cạnh linh cữu. Rất nhiều người trẻ thay phiên nhau túc trực cầu nguyện cho đến lễ an táng cử hành vào sáng hôm sau, với sự hiện diện của hơn 600 người. Tuy ai nấy đều đau xót thương tiếc vị bác sĩ trẻ, nhưng mọi người đều cảm nhận được sự bình an và đã cầu nguyện tha thứ cho cả hai binh sĩ sát nhân kia nữa. Từ ngày ấy Alberto an nghỉ trong nghĩa trang thành Đức Mẹ Ginetta.

 

Chị Chiara Lubich, trong thư báo tử gửi đến mọi thành viên phong trào trên toàn thế giới để báo tin Alberto Neri Fernandez bị sát hại, đã viết ”Đây là thành viên tổ ấm đầu tiên của chúng ta chịu tử đạo, đã bị giết trong khi thực hiện một hành động tình yêu”.

 

Mai Anh

ĐỌC SÁCH

Vụn vặt suy tư :

SAI LẦM : ĐÁNG TIẾC NHƯNG KHÔNG ĐÁNG TRÁCH

 

Sai lầm là một đáp ca được vang lên rền rĩ suốt dòng lịch sử của mọi dân tộc, mọi tập thể và mọi cá nhân. Sai lầm là người bạn thân thiết của loài người đến mức độ đã làm người, thì không thể không sai lầm. Errare humanuum est.

 

Ta thử tìm gặp nó trên đường truyền giáo. Gặp ngay. Gặp hoài.

 

1. Các Tông đồ sai lầm.

 

+ Giacôbê và Gioan được sai đi dọn chỗ để Thầy đến. Bị từ chối. Thế là hai ông nổi sùng lên :” Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi nó không ?’. Hai thừa sai sai quá Bị Thầy mắng cho ( Lc 9, 51-56).

 

+ Gioan đi truyền giáo gặp một người kia, lạ hoắc mà dám nhân danh Giêsu để trừ quỷ. Ông cấm không cho người ấy được nhân danh Thầy mình để trừ quỷ. Ông tưởng mình làm đúng, về khoe và kể công với Thầy, bị Thầy phản đối: ‘Đừng ngăn cản người ta”.Gioan làm sai mà không biết.

 

+ Thánh Phêrô được Thầy dạy rằng : “Mọi đồ ăn đều thanh hết’ ( Mc 7, 19), nghĩa là Thầy xoá bỏ hoàn toàn ; luật thanh–uế được Môsê tỉ mỉ trình bày trong Lêvi chương 11. Phêrô không hiểu, nên bị Thầy mắng là “tối dạ”. Bị mắng là tối dạ, ông vẫn tối dạ. Trên đường truyền giáo ông vẫn rao giảng Môsê với luật thanh–uế. Ông quên, hay đúng hơn ông không hiểu giáo huấn của Thầy trong Mc 7, 19. Ông cứ rao giảng sai ý Thầy mãi cho tới thị kiến ở Gióppê. Ông thị kiến một cái màn có lúc nhúc những con vật mà Môsê bảo là uế ( Lv 11). Còn Thầy thì bảo là không uế ( Mc 7, 19). Có tiếng từ Trời phán : “hãy giết đi mà ăn’. Ông quên Thầy để theo Môsê, nên chê ngay như một phản xạ : “Không bao giờ con ăn những gì ô uế” ( Cv 10, 1- 16). Dường như Phêrô đã rao giảng sai ý Chúa về luật thanh uế trong suốt thời gian mười năm.

 

+ Thánh Giacôbê, trong Công đồng Giêrusalem đã giải quyết cho người ngoại trở lại khỏi cắt bì, khỏi giữ luật Môsê. Nhưng lại yêu cầu họ phải giữ một điều sai với ý của Chúa. Đó là không được ăn huyết tươi, chỉ vì huyết tươi là đồ ăn uế. Trò thì bảo là uế ( Cv 15, 20) còn Thầy thì bảo là không ( Mc 7, 19).

 

+ Toàn thể Giáo hội sơ khai đều tin rằng ngày tận thế có thể xảy ra trong thời mà nhiều người trong họ chưa nếm cái chết ( Tx 4, 13-18). Chờ mãi. Chờ mãi nhưng chẳng thấy đâu. Tin sai. Chờ sai. Rao giảng cũng sai.

 

  2. Chúng ta sai.

 

+ Trên đường truyền giáo có rất nhiều sai lầm và sai sót. Sai từ nội dung truyền giáo đến phương pháp truyền giáo. Sai từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ.

 

+ Năm 1952, Hội Đồng Giám mục Đông Dương đã bỏ một bài kinh trong sách Mục lục. Đó là kinh cầu nguyện với Thánh Phanxicô Xaviê cho người ngoại trở lại. Kinh ấy có một lời như sau :”Người ngoại sa xuống đầy dẫy hoả ngục, thì ố danh Chúa tôi dường nào!”.

 

+ Sai về tín lý, sai về phương pháp truyền giáo. Sai về tín lý vì người ngoại không sa xuống hoả ngục đầy dẫy như thế. Sai về phương pháp truyền giáo, vì nếu người ngoại nghe đọc kinh ấy thì sẽ nổi giận hơn là sám hối.

 

+ Nhà truyền giáo De Rhodes gọi Đức Phật Thích Ca là tên gian dối ( Phép Giảng Tám Ngày, ngày thứ bốn) Sai. Sai quá chừng. Đức Phaolô VI trong thông điệp đầu tay ( Ecclesiam Suam) gọi các vị Sáng lập các tôn giáo là con đường dẫn đến chân lý. Mọi tôn giáo đều có thiện chí giải đáp những thắc mắc căn bản của con người về thiện– ác, về sống-chết,  về thế giới hữu hình và vô hình…

 

+ Phương pháp “bàn bào’( tabula rasa) của ba trăm năm về trước là một sai lầm có tầm mức chiến lược. Dẹp bàn thờ ông bà là một trong những sai lầm ấy. Tai hại khôn lường! Đáng tiếc vô cùng !

 

+  Một hồng y kể chuyện.

 

-         Có một tân tòng đến thăm ngài. Ngài được thông tin trước về niềm tin vững chắc của người nữ tân tòng này.Ngài an ủi hỏi thăm.

-         Chị trở lại đạo từ hồi nào vậy ?

-         Con đi tới chứ con không trở lại.

-         Chị nói hay quá.

-         Vị Hồng y ấy dùng câu chuyện này để nhắc nhở các nhà thừa sai rằng : các tôn giáo bạn đều tốt lắm. Các tín đồ bạn đang đi trên đường ngay thẳng. Nếu họ theo đạo Chúa là họ tiến thêm một bước nữa chứ không phải là họ đi lạc mà trở lại. Cái từ “trở lại đạo”tố cáo một sai lầm tiềm ẩn trong não trạng của người Kitô hữu từ thuở nào cho đến bây giờ.

 

3. Sai thì đáng tiếc chứ không đáng trách

 

+ Thánh Gioan, Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê đã thấm nhuần tinh thần Cựu ước quá sâu rồi, không dễ gì các ngài đón nhận được giáo lý của Chúa, của Thầy, Đấng từ trời mà xuống. Cái luật thanh-uế đã thấm vào tâm, não và xương thịt của người Do thái . Kim ta kim tê – nhân vật chính của tác phẩm Cội Rễ, theo đạo Hồi, kiêng thịt heo theo luật Môsê. Anh nghê tởm thịt heo. Ngửi thấy mùi heo là buồn nôn. Anh sống bên Mỹ ba mươi năm mà vẫn không thể ngửi được mùi thịt heo.

 

+ Các nhà truyền giáo Âu Châu không thể hiểu được, không thể cảm nghiệm được những cái hay cái đẹp tiềm ẩn trong văn hoá Đông phương. Tám trăm năm không đi truyền giáo ( từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVI)  khi bắt đầu truyền giáo thì hành trang “ hội nhập văn hóa” lép kẹp. Đành phải sai thôi.

 

+ Điều sai thì phải tiếc. Tiếc vô vàn. Nhưng chẳng phiền trách ai vì sai lầm là căn tính của con người. Tuy nhiên phải khiêm tốn nhìn nhận những sai lầm của mình. Nhìn nhận sai lầm không phải là vạch áo cho người xem lưng, nhưng là “chứng tá của Tin mừng” ( Thông điệp Sứ vụ Đáng Cứu Độ, số 42).

 

 

Lm. Piô. Ngô Phúc Hậu